Luật khinh mạn tòa (contempt of court)
Credit: cartoon.com
Luật khinh mạn quan tòa liên
quan tới lời nói và hành động can thiệp vào tiến trình pháp lý có chiều hướng
làm giảm thẩm quyền của quan tòa. Luật khinh mạn quan tòa giới hạn khả năng phổ
biến thông tin của cơ quan truyền thông. Tại Úc, luật này thuộc về thông luật
(common law) và cho đến nay thì chưa có đạo luật nào ra đời ghi rõ đầy đủ các yếu
tố phạm tội cũng như luận cứ biện hộ.
Hình thức khinh mạn quan tòa đối
với cơ quan truyền thông và ký giả gồm có:
·
Không chịu tiết lộ nguồn tin
·
Tiết lộ hoặc phổ biến thông tin mà tòa đã ra lệnh
không được phổ biến
·
Phổ biến thông tin can thiệp đến tiến trình
pháp lý
·
Phổ biến thông tin có ý hạ thấp uy tín hoặc thẩm
quyền của quan tòa
·
Phổ biến quyết định của bồi thẩm đoàn
Cá nhân một người ký giả không
tiết lộ nguồn tin theo lệnh của tòa sẽ bị phạm tội.
Khi thông tin hoặc tài liệu phổ
biến trái lệnh tòa thì tất cả những người liên quan tới sự phổ biến này có thể
phạm tội gồm có chủ nhân, chủ nhiệm, chủ bút, sáng tác (producer), nhà in, ký
giả và những người cung cấp thông tin liên hệ.
Phổ
biến thông tin can thiệp đến tiến trình pháp lý (Sub Judice)
Mục đích của luật này là ngăn
cản sự phổ biến tài liệu có thể tạo thành kiến về một vụ kiện hình sự hoặc dân
sự. Một bên là tòa án muốn bảo vệ tiến trình xét xử được công bằng và một bên là
quyền tự do thông tin và tự do báo chí.Vấn đề là làm sao để quân bình 2 quyền
lợi quan trọng này.Trước đây thì tòa đặt nặng vấn đề bảo đảm quyền xét xử công
bằng. Nhưng tròng thời gian gần đây kể từ khi Tối cao Pháp viện tuyên bố Hiến
pháp Úc bảo về quyền tự do chính luận thì quyền tự do ngôn luận về chính trị được
đánh giá cao hơn.
Tòa có nhiều cách để ngăn ngừa
việc phổ biến thông tin có thể tạo công luận tiêu cực ví dụ như ra lệnh cấm
không được sử dụng máy chụp hình, quay phim hoặc tiết lộ những chi tiết quan trọng
hoặc cảnh báo bồi thẩm đoàn là chỉ chú trọng vào bằng chứng được trưng ra trước
tòa.
Hình thức khinh mạn này đòi hỏi
3 yếu tố:
·
Sự phổ biến tài liệu
·
Tài liệu này được phổ biến trong lúc vụ kiện
đang tiếp diễn và
·
Sự phổ biến này có ảnh hưởng đến tiến trình xét
xử trước tòa.
Việc cá nhân phạm tội có ý định
hay không can thiệp vào tiến trình xét xử không quyết định có tội hay không có
tội mà chỉ có thể làm nhẹ đi hình phạt.
Khi nào thì tiến trình xét xử
bắt đầu?Với luật hình sự thì tiến trình bắt đầu tức lúc bị cáo bị bắt và truy tố
hoặc để bị truy tố. Khi bị can bị bắt thì cảnh sát có trách nhiệm đưa ra tòa tòa sớm càng tốt để chính thức truy tố và trình bày cáo trạng. Với luật dân sự
thì một khi nộp đơn và tòa ban hành đơn kiện.
Trong vụ James v Robinson
(1963) 109 CLR 593, báo Sunday Times Perth phổ biến chi tiết của một nghi phạm
liên quan tới hai vụ giết người. Lúc đó thì cảnh sát đang tìm bắt nghi phạm chớ
chưa khởi tố. Tối cao Pháp viện pháp rằng tiến trình xét xử chưa bắt đầu vì
chưa có gì đụng chạm đến tòa án mặc dù việc phổ biến danh tính nghi phạm có thể
tạo thành kiến trong công chúng. Có nghĩa là truyền thông có quyền phổ biến
thông tin về nghi phạm chưa bị cảnh sát bắt hoặc truy tố.
Ngoài ra, tài liệu phổ biến phải
có tính cách tạo thành kiến hoặc định kiến cản thiệp vào tiến trình xét xử.
Trong vụ Packer v Peacock (1912) 13 CLR 577, Tối cao Pháp viện phán rằng truyền
thông có quyền phổ biến những “sự kiện căn bản” (bare facts) ví dụ như có một vụ
tội phạm hoặc án mạng diễn ra, địa điểm cảnh sát tìm thấy xác chết, có người đã
bị bắt...Nhưng không được phổ biến lời khai nói rằng có người nhìn thấy A hoặc
B có mặt gần đó trong tay cầm dao...vì đó là bằng chứng cần được trưng bày và đối
chất trước tòa.
Dưới đây là một số trường hợp
tiêu biểu.
PHỔ
BIẾN LỜI PHÁT BIỂU PHẠM TỘI
Attorney General (NSW) v Radio 2UE Sydney Pty Ltd (1997)
Bị cáo bị truy tố tội sát nhân
một đứa be 18 tháng. Bị cáo phủ nhận tội sát nhân nhưng nhận tội ngộ sát. Công
tố viện không chịu nên sự việc được đưa ra toà xử.Trong ngày thứ ba của phiên xử,
Xướng ngôn viên John Laws gọi bị cáo là đồ “cặn bã” (scum). John Laws tưởng rằng
công tố viện đã chấp nhận lời nhận tội ngộ sát qua hình thức “trả giá” (plea
bargain) và tấn công hình thức này. Mặc dù đây là một sự ngộ nhận nhưng tòa đã
phán John Laws phạm tội khinh mạn.
PHỔ
BIẾN LỜI PHÁT BIỂU VÔ TỘI
Director
of Public Prosecutions v Wran (1987)
Neville Wran, cựu Thủ hiến NSW
là bạn thân của Thẩm phán Tối cao Pháp viện Lionel Murphy. Murphy bị truy tố về
hai tội làm sai lệch tiến trình công lý (perverting the course of justice). Tòa
xử Murphy vô tội một vụ và có tội vụ kia. Murphy kháng cáo và Tòa Kháng cáo ra
lệnh sử lại. Khi được truyền thông phỏng vấn thì Neville Wran trả lời rằng:
“Tôi rất hài lòng với phán quyết của Tòa Kháng cáo. Tôi đồng ý với quyết định của
tòa là rõ ràng công lý không được thực thi và tôi nghĩ là vụ xử này nên kết thúc
càng sớm càng tốt vì sự việc đã kéo quá dài...Tôi tin chắc chắn Murphy là người
vô tội”.
Những lời phát biểu này được
báo Daily Telegraph đăng lại. Cả Wran và tờ báo bị truy tố và buộc tội khinh mạn
tòa.
NÓI
XẤU BỊ CÁO
R
v Saxon, Hadfield and Western Mail Ltd [1984]
Bị cáo bị truy tố tội khai man
(perjury) và đang chờ ngày xử. Trước đó không lâu, có một bài viết nói xấu bị
cáo nào là bị cáo làm ăn không đàng hoàng và hay quỵt nợ được đăng tải. Cà tác
giả lẫn tờ báo đều bị tòa phán phạm tội khinh mạn.’
R v Australian Broadcasting Corporation [1983]
Đài Truyền hình ABC chiếu cảnh
bị cáo bị bắt còng tay đằng sau hàng rào dây thép cộng với lời bình luận tiêu cực
làm mọi người nghĩ rằng bị cáo chắc chắn phạm tội. Tòa phán đây là hành vi
khinh mạn.
TẠO
LÒNG THƯƠNG HẠI VỚI BỊ CÁO HOẶC NẠN NHÂN
R
v Truth Newspaper (1993)
Paul Higgins là một nhân viên
cảnh sát Victoria. Paul bị truy tố về tội tham nhũng. Vụ xử kéo dài khoảng 15
tháng. Gần đến chót, tờ báo phổ biến một bài báo nói rằng đây là vụ xử tốn kém
nhất trong lịch sử nước Úc và đã tốn hơn 33 triệu đồng của người đóng thuế. Hôn
nhân của Paul đỗ vở và sức khỏe suy sụp trầm trọng. Tòa phán đầy là một hình thức
khinh mạn vì bài báo này ngụ ý rằng Paul là nạn nhân của công tố viện và tạo ra
lòng thương hại cho Paul trước khi bồi thẩm đoàn có quyết định có tội hay không
có tội.
PHỔ
BIẾN SỰ NHẬN TỘI
Attorney
General (NSW) v TCN Channel Nine Pty Ltd (1990)
Tối đêm 29 tháng 7 năm 1989
thì Mason ra đầu thú và nhận với cảnh sát là đã giết 3 người và mưu sát người thứ
tư. Sáng hôm sau thì Mason chính thức ký vào biên bản phỏng vấn với cảnh sát và
nhận tội. Sau đó Mason dẫn cảnh sát đến hiện trường và phát biểu thêm một số lời
nhận tội. Đại diện truyền thông đi theo cảnh sát và quay lại toàn cảnh tại hiện
trường. Tối hôm đó, Đài số 9 chiếu lại những cảnh này và bị truy tố về tội
khinh mạn.
Tòa Kháng cáo thẩm định cảnh
chiếu trên truyền hình rõ ràng cho thấy là Mason có tội. Hình ảnh Mason tại hiện
trường tạo ấn tượng mạnh mẽ Mason là kẻ sát nhân. Mặc dù đài số 9 sử dụng những
danh từ “được cho biết là đã nhận tội” (allegedly admitted, alledgedly
confessed), những cảnh phim được chiếu cho thấy không còn gì phải nghi ngờ
Mason là thủ phạm. Đài số 9 cãi rằng lúc đó Mason thật sự đã nhận tội với cảnh
sát. Nhưng tòa không chấp nhận lập luận này vì vào thời điểm đó không ai biết
có vấn đề gì với lời thú nhận hay không ví dụ như bị ép cung hoặc Mason có mang
bệnh tâm lý hoặc tâm thần không nhất là khi cảnh sát không chính thức đưa ra
tòa truy tố tới hai ngày sau. Đài số 9 bị phán là đã khinh mạn tòa.
PHỔ
BIẾN TIỀN ÁN
Attorney
General (NSW) v Willesee (1980)
Schneidas là một tù nhân bị tố
là giết Mewburn một cai tù. Cái chết của cai tù dẫn đến sự đình công của nhân
viên cải huấn và tất cả tù nhân bị khóa kín trong phòng.Đài số 7 trình chiếu một
chương trình nói về sự kiện này và người dẫn chương trình Willesee nói rằng bị
cáo trước đây đã sử dụng vũ khí hành hung hai nhân viên cải huấn khác và đáng lẽ
phải bị biệt giam. Willesee cãi rằng tiền án của Schneidas đã được phổ biến
trên công luận. Nhưng Tòa Kháng cáo phán rằng việc Willesee phổ biến tiền án
trong lúc sự việc còn đang xét xử có nguy cơ tạo thành kiến và vì thế Willesee
vi phạm luật khinh mạn tòa.
PHỔ
BIẾN PHÁT BIỂU CỦA NHÂN CHỨNG
Attorney
General (NSW) v Mirror Newspapers Ltd (1980)
Tòa coroner (điều tra án mạng)
tiến hành điều tra việc 7 người bị chết vì hỏa hoạn trong một trò chơi cưỡi
(ghost train) ở Sydney Luna Park. Trong tòa, một nhân chứng khai là đã thấy
nhân viên cho hai cậu bé lên xe. Lời khai này được báo Daily Telegraph (Mirror
Newspapers Ltd) thuật lại.Sau đó, tờ báo đi kiếm người nhân viên đó phỏng vấn.Những
lời phát biểu trả lời biện bạch và phủ nhận cáo buộc của nhân viên này được
đăng lên báo. Trước đó thì nhân viên này đã được cảnh sát phỏng vấn và chuẩn bị
ra làm nhân chứng trước Tòa Điều tra. Tòa Thượng thẩm Kháng cáo phán rằng phổ
biến lời khai của nhân chứng vi phạm luật khinh mạn tòa vì có thể ảnh hưởng tới
lời khai của nhân chứng đó trước tòa cũng như lời khai của nhiều nhân chứng
khác.
Civil
Aviation Authority v Australian Broadcasting Corporation (1995)
Ngày 4 tháng 11 năm 1993, Tòa
Coroner thông báo là sẽ tiến hành tổ chức phiên xử điều tra tai nạn máy bay làm
7 người chết. Ngày xử được ấn định vào 1 tháng 8 năm 1994. Đài ABC trình chiếu
một chương trình về tai nạn này vào ngày 3 tháng 4, 1994. Chương trình gồm có
các cuộc phỏng vấn với một số nhân chứng tường thuật lại những gì họ thấy. Tòa
Kháng cáo NSW phán rằng chương trình này không phạm luật vì nhân chứng chỉ tường
thuật lại những dữ kiện căn bản (bare facts). Hơn nữa, những người này không được mời làm nhân chứng
trước tòa coroner và không có quan hệ gì với công ty hàng không Monarch Airline
(chủ nhân của chiếc máy bay bị rớt).
Chương trình cũng chiếu cuộc
phỏng vấn với hai chuyên gia về tai nạn máy bay. Cả hai người này khi phỏng vấn
đã sử dụng văn bản ghi lại sự kiện mà họ thu nhận được ngay sau khi tai nạn xảy
ra. Tòa cho rằng những bằng chứng này không có nguy cơ ảnh hưởng đến lời khai của
nhân chứng khác.
Ở đoạn cuối chương trình thì
có một ký giả ABC (reporter) phát biểu ý kiến rõ rang tai nạn này là do lỗi của
công ty hàng không vì Civil Aviation Authority đã hai lần đề nghị đình chỉ môn
bài. Hai Thẩm phán Kirby và Sheller cho rằng ý kiến này sẽ không ảnh hưởng gì tới
cuộc điều tra của Tòa Coroner. Nhưng Thẩm phán Handley không đồng ý và cho rằng
từng cuộc phỏng vấn tự nó thì không nhưng nguyên cả chương trình gom lại có thể
ảnh hưởng đến lời khai của nhân viên Civil Aviation Authority.
Tóm lại, các cơ quan truyền
thông phải rất cẩn trọng khi trình chiếu các cuộc phỏng vấn với nhân chứng trước
phiên xử.
PHỔ
BIẾN HÌNH ẢNH CỦA BỊ CÁO
Attorney
General (NSW) v Time Inc Magazine Company Pty Ltd (1994)
Trong tháng 6, 1994, tạp chí
Time có ý định đăng hình của Ivan Milat là bị cáo bị truy tố đã giết 7 người
backpackers và chôn xác họ trong khu rừng Belanglo State Forest. Bị cáo đã cho
biết là sẽ không nhận tội. Bộ Tư pháp NSW xin lệnh tòa ngăn cấm Time không được
đăng hình của bị cáo.
Time lập luận rằng nhận diện
(identification) không là một vấn đề trong vụ án này vì cảnh sát đã điều tra
chu đáo và không có dấu hiệu cho thấy sẽ có thêm nhân chứng xuất hiện nhận diện
bị cáo. Tòa đã không chấp nhận lập luận này. vấn đề nhận diện không chỉ giới hạn
khi nhân chứng nhìn thấy bị cáo hạ thủ mà khi họ nhìn thấy bị cáo ở những nơi
khác vào những thời điểm khác và trong tương lai và biết đâu sẽ có thêm nhân chứng
mới xuất hiện và sự phổ biến hình ảnh của bị cáo có thể làm nhiễm (contaminate)
bằng chứng của họ.
TẤN
CÔNG TÒA
R
v Dunbabin Ex parte Williams (1935)
Báo The Sun phổ biến bài viết
tấn công Tối Cao Pháp Viện Úc và nói rằng Tòa đã lấn át chính phủ khi ban hành
một số phán quyết. Tòa phán rằng mục đích của bài viết là cố ý trình bày vai
trò và chức năng của Tòa một cách sai lệch với công chúng để hạ thấp uy tín của
Tòa. Vì vậy, báo The Sun đã vi phạm luật khinh mạn.
Comments
Post a Comment