Phân chia tài sản gia đình
Credit: div-ide.com.au
Ls Nguyễn Văn Thân
Không có gì khó khăn hơn việc
giải quyết tranh chấp tài sản gia đình khi hai vợ chồng chia tay. Đặc biệt là
người Việt chúng ta lại có sẵn nhiều định kiến về vai trò khác nhau của vợ chồng
trong gia đình và trong xã hội. Một mặt thì người đàn ông Việt nam thường có
quan niệm rộng rãi và hào phóng khi nghĩ đến trách nhiệm với con cái. Mặt khác
thì họ thường đánh giá thấp vai trò nội trợ của người vợ. Về cái nhìn của người
phụ nữ thì họ lại cho rằng con cái cũng có phần trong tài sản gia đình. Những
suy nghĩ như vậy thường không phản ánh đúng thực tế của luật pháp. Tài sản gia
đình là thuộc hai vợ chồng và luật pháp không ấn định chia cho con cái. Dĩ
nhiên là cả vợ lẫn chồng đều có quyền cho lại tất cả hay một phần tài sản của
riêng họ hoặc của cả hai nếu có sự đồng thuận. Cũng có người cho rằng phai ly dị
trước rồi mới chia tài sản. Thật ra, luật gia đình bắt buộc vợ chồng phải ly
thân trên 12 tháng mới được quyền đệ đơn xin ly dị. Ngay sau khi ly thân là một
hoặc cả hai được đặt vấn đề nuôi giữ con cái và phân chia tài sản.
Những sự hiểu lầm như vậy có
thể dẫn đến xung đột và kiện tụng tốn kém tạo nhiều tác hại cho chính cặp vợ chồng
và con cái. Đa số mọi người trong hoàn cảnh này đều mong muốn có thể giải quyết
vấn đề một cách nhẹ nhàng qua một sự đồng thuận với nhau. Nhưng những người
trong cuộc chỉ có thể thương lượng và đi đến một thỏa thuận công bằng và hợp lý
dựa trên sự hiểu biết đúng đắn về những nguyên tắc luật pháp áp dụng cho việc
phân chia tài sản gia đình.
Đạo luật Gia đình (Family Law
Act 1975) đưa ra 4 nguyên tắc căn bản cho việc phân chia tài sản. Thứ nhất, tất
cả tài sản gia đình cần được liệt kê và định giá. Thứ hai, sự đóng góp trực tiếp
hoặc gián tiếp, bằng tài chánh hoặc công sức của cả hai vợ chồng đều được ghi nhận
và thẩm định. Thứ ba, tỷ lệ phân chia sẽ được điều chỉnh tùy theo nhu cầu và
hoàn cảnh của những người trong cuộc và sau cùng là một cái nhìn tổng thể xem
xét kết quả phân chia có công bằng trong trường hợp hoặc hoàn cảnh đó hay
không.
Tất cả tài sản gia đình gồm có
bất động sản, thương vụ, xe cộ, cổ phần đứng tên chung hay riêng, vàng vòng, hiện
kim, hiện vật cũng như tiền trong quỹ hưu trí đều được coi như là tài sản gia
đình. Không cần biết là tài sản này đã có trước hoặc sau khi thành hôn. Dĩ nhiên
là phải trừ đi tất cả nợ nần trước khi phân chia. Nếu bất đồng về giá trị của một
phần tài sản nào đó ví dụ như giá nhà hoặc thương vụ hoặc cổ phần trong công ty
thì đương sự có thể thuê mướn chuyên viên định giá để định giá. Ngoài ra, luật
pháp cũng cho phép tính những phần tài sản đã được tẩu tán ví dụ như khi người
vợ hoặc chồng bán đi một phần tài sản nào đó rồi xài hết tiền. Tài sản gia đình
được coi là tất cả tài sản hai bên có tại lúc xét xử bao gồm tài sản mua hoặc
thu nhận sau khi ly thân.
Đóng
góp tài
Bước thứ hai là phải thẩm định
mức độ đóng góp của hai vợ chồng. Có hai phương pháp thẩm định đóng góp: tổng
thể tài sản hoặc là từng phần tài sản. Phương pháp thứ hai chỉ thích hợp cho
các cuộc hôn nhân ngắn nhất là khi hai vợ chồng đã có tài sản riêng trước khi
thành hôn. Với các cuộc hôn nhân dài hạn thì toà thường áp dụng phương pháp thứ
nhất.
Ngoài việc mua hoặc thu nhận,
luật pháp cũng ghi nhận sự đóng góp trong việc bảo quản và gia tăng giá trị của
tài sản. Trong vụ McDougall (1976), người chồng đã có căn nhà trước khi kết
hôn. Sau đó, người chồng bán căn nhà cũ và dung số tiền bán mua căn nhà mới để
hai vợ chồng cùng ở. Người vợ chỉ bỏ tiền sửa sang nhà. Luật pháp ghi nhận người
vợ có phần trong căn nhà mới. Tương tự như vậy trong vụ Cibic & Cibic
(1977), người vợ bỏ tiền ra mua nhà. Sau khi ly thân, người chồng tiếp tục ở
trong căn nhà đó, trả tiền thuế, rác và bỏ công sửa sang và chăm sóc vườn tược.
Tới ngày xử thì giá nhà đã tăng vọt rất nhiều. Tòa quyết định chia 3/5 cho người
chồng.
Với những cuộc hôn nhân dài hạn
thì phần tài sản riêng có trước khi thành hôn không còn quan trọng nữa. Thông
thường trong các cuộc hôn nhân này thì hai vợ chồng đã thỏa thuận phân chia vai
trò rõ ràng. Người vợ hy sinh sự nghiệp để sinh con và làm nội trợ để người chồng
có thễ rảnh rỗi ra ngoài làm ăn và kiếm tiền nuôi gia đình. Trong vụ xử GWH v
PGH (2005), người chồng có khoảng $800,000 đồng trước khi cưới nhau. Người vợ
thì không có tài sản gì cả. Hai bên ly thân sau khi chung sống hơn 18 năm và có
hai con. Tòa thẩm định sự đóng góp của người vợ là 30%. Sau khi điều chỉnh tỷ lệ
vì người vợ nuôi giữ hai đứa con thì người vợ được hưởng 45% của tài sản gia
đình.
Tài sản mua sắm sau khi ly
thân của một người không hẳn là không có sự đóng góp của người kia. Trong vụ xử
Jacobson & Jacobson (1989), hai vợ chồng ly thân hơn 4 năm. Người vợ lo
chăm sóc cho đứa con bị tật nguyền. Người chồng thì có lợi tức rất cao và chỉ
trong một khoảng thời gian ngắn sau khi ly thân đã mua và trả đứt căn nhà ở rồi
mua thêm căn thứ hai để đầu tư. Luật sư của người chồng biện luận rằng người vợ
không có đóng góp gì cho những phần tài sản sau ngày ly than. Toà đã không chấp
nhận lý luận này và đã phán cho người vợ được 45% tài sản gia đình.
Quà
tặng và thừa hưởng
Trước khi cưới hoặc trong lúc
chung sống với nhau, vợ chồng có thể nhận quà tặng từ cha mẹ và gia đình. Vấn đề
là món quà này được tặng cho một hay cả hai. Tòa đã quyết định khi cha mẹ tặng
quà thì là tặng riêng cho con của họ trừ khi có những bằng chứng cụ thể trái
ngược. Và phần tài sản này được coi là do công đóng góp của người nhận quà.
Cơ hội được thừa hưởng tài sản
được cứu xét trong vụ xử White & Tulloch (1995). Trong vụ này, mẹ của người
vợ đã 81 tuổi. Người chồng xin phép và được tòa chấp thuận xem xét di chúc của
người mẹ vợ. Trong vụ Grace & Grace (1998), người vợ xin phép và được tòa
chấp thuận đình xử vụ kiện phân chia tài sản cho tới khi mẹ chồng qua đời (2
năm rưỡi sau đó) vì tài sản người chồng được thừa hưởng được xem là tài sản gia
đình.
Trúng
số
Trong vụ Zyk & Zyk (1995),
hai vợ chồng cưới nhau được 8 năm. Người chồng mua và trúng lotto sau hai năm
chung sống. Người chồng cho rằng phần tiền trúng này là công lao của riêng
mình. Lý luận này không được tòa chấp nhận. Khi hai vợ chồng chung sống với
nhau, tiền dùng mua lotto bởi riêng vợ hoặc chồng sẽ được coi như là được mua từ
số tiền chung của hai vợ chồng như khi mua sắm bất cứ thứ gì và phần tiền trúng
số sẽ được coi như là công lao của cả hai vợ chồng.
Trong vụ Farmer & Bramley
(2000), cặp vợ chồng chung sống với nhau được 12 năm và có 1 con. Không có tài
sản gì đáng kể. Khi mới kết hôn thì người chồng còn nghiện xì ke và người vợ
lãnh trách nhiệm chính lo cho gia đình. Người chồng trúng lotto 5 triệu khoảng
1 năm sau khi ly thân. Người vợ đòi chia tài sản nhưng người chồng không đồng ý
với lý lẽ là việc may mắn trúng lotto diễn ra sau khi hai người đã chia tay và
sinh sống riêng biệt. Tòa đã không chấp nhận lập luận này và phán cho người vợ
được $750,000 vì người vợ đã có nhiều đóng góp tài chính và công sức cho gia
đình trong thời gian chung sống. Tất cả tài sản gia đình có được tại ngày xử đều
được tính bao gồm số tiền trúng lotto sau khi ly thân.
Phí
của
Nếu có người cố ý hay bất cẩn
lãng phí tài sản gia đình, tòa có thể hạ thấp sự đóng góp của đương sự. Trong vụ
Kowaliw & Kowaliw (1981), người chồng không thu tiền mướn nhà gần 1 năm,
Tòa phán là người chồng hoàn toàn chịu trách nhiệm cho sự thất thu này. Tương tự
như vậy, trong vụ D & D (2003), người chồng cố tình và ác ý hủy bỏ hợp đồng
mua xe trả góp trong khi người vợ vẫn trả tiền hàng tháng đều đặn. Kết cuộc công
ty lấy xe lại và đệ đơn kiện đòi nợ. Tòa phán là người chồng phải hoàn toàn chịu
trách nhiệm cho món nợ đó.
Đóng
góp công sức
Trong một cuộc hôn nhân khi vợ
chồng thỏa thuận là vợ sẽ không hoặc ngừng đi làm để đóng vai trò nội trợ và
chăm sóc con cái thì tài sản gia đình có được từ đồng lương hoặc lợi tức của
người chồng đều được ghi nhận là có sự đóng góp của người vợ. Ngoài ra, người vợ
cũng đóng góp công sức khi giúp chồng quản lý sổ sách hoặc nhân viên hoặc điều
hành cơ sở kinh doanh. Vấn đề khó khăn là làm sao định giá được chính xác phần
đóng góp công sức của người vợ nhất là trong những trường hợp khi người chồng
cho rằng người chồng có tài năng đặc biệt mới tạo dựng được nhiều tài sản cho
gia đình. Trong vụ Ferraro (1990), hai vợ chồng chung sống hơn 27 năm và có 2
con. Ngoại trừ 5 năm đầu, người vợ không có đi làm và đóng vai nội trợ toàn thời.
Người chồng làm ăn thành đạt và tài sản gia đình lên tới gần 12 triệu. Tòa quyết
định chia cho người vợ 37.5%. Trong một vụ khác JEL & DDF (2000), hai vợ chồng
cưới nhau được 18 năm và có 3 con. Vợ là một y tá nhưng ngưng đi làm sau khi kết
hôn. Chồng là một kỹ sư địa chất và với tài năng đặc biệt gầy dựng được số tài
sản khổng lồ lên tới 36 triệu. Khi xử, người vợ được chia 35% nhưng người chồng
kháng cáo và con số giảm xuống 27.5%.
Nhu
cầu
Bước thứ ba trong tiến trình
phân chia tài sản là điều chỉnh lại dựa trên những yếu tố ảnh hưởng đến đời sống
của người vợ hoặc chồng trong tương lai. Những yếu tố này gồm tuổi tác và sức
khỏe, khả năng tìm kiếm được việc làm, có trách nhiệm nuôi con nhỏ hay không,
có nhận được tiền cấp dưỡng hay không. Khi Đạo luật Gia đình (Family Law Act) mới
ra đời vào năm 1975, tỷ lệ điều chỉnh thường chỉ từ 5%-10%. Trong thập niên 90,
tỷ lệ này tăng lên tới 10%-20%. Có nghĩa là sau khi đã thẩm định công lao đóng
góp của hai bên, tòa sẽ cắt và chuyển một tỷ lệ nào đó qua phía bên kia (thông
thường là cho người vợ vì những yếu tố nên trên). Trong vụ Clauson &
Clauson (1995), cặp vợ chồng cưới nhau được 8 năm và có 4 mặt con. Tòa thẩm định
tỷ lệ đóng góp của người vợ là 25% nhưng điều chỉnh và cho thêm người vợ 15%
lên tổng cộng là 40% tài sản gia đình. Người vợ kháng cáo và tòa đã tăng con số
điều chỉnh lên 25% tức người vợ được chia tổng cộng 50%. Trong trường hợp đặc
biệt ví dụ như trong vụ Best & Best (1993) khi tài sản gia đình quá ít mà
người vợ phải nuôi tới 4 đứa con thơ thì tòa sẵn sàng ra lệnh người chồng trao
hết tài sản gia đình cho người vợ.
Sau khi đã đi qua 3 bước nêu
trên, tòa án có trách nhiệm duyệt lại kết quả đưa đến có đạt được sự công bằng
và công lý hay không. Trong đại đa số trường hợp thì nếu 3 bước đầu được áp dụng
đúng đắn thì kết quả đương nhiên sẽ công bằng cho những người trong cuộc. Tóm lại,
phân chia tài sản dưới Luật Gia đình dựa trên một số nguyên tắc pháp lý căn bản
và những quyết định phán xét tiền lệ. Không có một công thức toán học hoặc khoa
học nào có thể áp dụng một cách đơn giản. Mỗi trường hợp cần được cứu xét dựa
theo từng hoàn cảnh cá biệt. Luật pháp không phải là một giải pháp hoàn hảo mà
chỉ có thể đạt được một mức độ công lý vừa phải nào đó để giúp cho những cặp vợ
chồng giải quyết dứt điểm quan hệ tài sản và bắt đầu một cuộc sống mới.
Comments
Post a Comment