Franchise là gì?

 


Credit: accc.gov.au

Ls Nguyễn Văn Thân

Franchise là một hình thức kinh doanh dựa trên sự thỏa thuận giữa công ty làm chủ franchise (gọi là franchisor) và những người mua lại franchise (gọi là franchisee). Franchisor là chủ nhân của toàn hệ thống kinh doanh (business system) gồm có bản quyền thương hiệu (brand), thiết kế (design) và phương pháp điều hành dịch vụ (business operation system). Franchisee được quyền sử dụng hệ thống của franchisor bằng cách trả tiền lệ phí sử dụng (licence hoặc royalty fee). Thông thường, lệ phí này dựa trên tỷ lệ thu nhập của franchisee. Ngoài ra, franchisee cũng phải trả lệ phí thành lập franchise (establishment fee) và tổn phí thiết bị cửa tiệm theo đúng thiết kế của franchisor.

“Franchising” là một từ của tiếng Pháp – có nghĩa là “đặc quyền”. Từ thời kỳ Trung Cổ, các lãnh chúa và chủ điền đã trao đặc quyền cho một số thương gia được quyền điều hành các phiên chợ hoặc vận chuyển hàng hóa trong lãnh thổ của họ. Tới cuối thế kỷ 18, một số nhà sản xuất bia rượu tại Âu châu tìm chọn cửa hàng quảng cáo và phân phối sản phẩm chỉ riêng cho họ. Hình thức kinh doanh này lan tới Hoa kỳ. Có nhiều người cho rằng ông Albert Singer, người sáng chế ra máy mai nổi tiếng hiệu Singer là cha đẻ của hợp đồng franchise khi ông bắt đầu áp dụng lối làm ăn này vào năm 1851. Hệ thống franchise phát triển mạnh mẽ tại Hoa kỳ qua các công ty sản xuất phụ tùng xe cộ. Tiếp theo là trong lĩnh vực bán lẻ và tiệm ăn. Hầu hết tất cả những tiệm ăn nổi tiếng đều nằm dưới hệ thống franchise ví dụ như Kentucky Fried Chicken bắt đầu từ 1930, Burger King năm 1954 và McDonald’s năm 1955.

Hệ thống franchise phát triển mạnh mẽ tại Úc trong hai thập niên qua. Lý do chính là thương gia có nhiều cơ hội thành công hơn khi làm ăn dưới dạng franchise.  Một số ngân hàng sẵn sàng cho vay để mua franchise. Tính tới năm 2008 thì đã có trên 1000 thương hiệu franchise hoạt động tại Úc với hơn 70000 đơn vị franchise trên toàn quốc. Tổng số thu nhập ước lượng tới 130 tỷ Úc kim và có hơn nửa triệu nhân công phục vụ trong kỹ nghệ franchise. Mặt khác, cũng có một số thương hiệu franchise nổi tiếng thất bại và sụp đổ trong thời gian vừa qua gồm có Midas, Kleenmaid, Kleins Jewellery, Traveland và Cut Price Deli.

Hợp đồng franchise

Franchise là một hình thức tiểu thương thích hợp cho một số thành viên trong cộng đồng người Việt. Không cần có kinh nghiệm vẫn có thể gầy dựng một thương vụ độc lập nhỏ mà cả gia đình có thể tham gia và đóng góp. Nhưng không thể nói làm franchise là mặc nhiên sẽ thành công dễ dàng. Cũng như bất cứ thương mại nào, franchise đòi hỏi sự cần cù, tính toán và kỹ năng. Điều quan trọng đầu tiên là phải tìm hiểu hình thức franchise nào thích hợp với mình về khả năng và vốn liếng. Nếu bạn không thích giao thiệp thì nên tránh những thương hiệu bán lẻ đòi hỏi khả năng trò chuyện, phục vụ và thuyết phục khách hàng. Bạn có thể chọn franchise về cleaning văn phòng, hãng xưởng hoặc couriers vận chuyển hàng quá. Không thể nghĩ tới việc mua một franchise McDonald’s lên tới hàng triệu đồng nếu mình không có đủ vốn.

Bước quan trọng đầu tiên là nên tham khảo ý kiến với kế toán gia và luật sư. Kế toán gia có thể cố vấn cho bạn về quá trình và khả năng tài chánh của franchisor dựa trên các bản báo cáo tài chính (financial statements). Họ cũng giúp soạn thảo kế hoạch thương mại (business plan) với những con số cụ thể và tiềm năng phát triển hoặc sinh tồn của thương vụ mà bạn muốn nhúng tay vào. Luật sư của bạn có thể yêu cầu franchisor cung cấp tài liệu nói về lịch sử và thực trạng của franchise (gọi là disclosure documents) và bản hợp đồng mẫu franchise. Tiến trình và nội dung của cuộc thương lượng tùy theo mỗi thương hiệu. Bạn sẽ có nhiều cơ hội đòi hỏi điều kiện mình muốn đối với những thương hiệu mới.

Những điểm quan trọng trong hợp đồng franchise gồm có sự độc quyền hoạt động trong một khu vực hoặc lãnh thổ (exclusive territory), tài liệu hướng dẫn (operations manual), các khóa huấn luyện (training), franchisor phải cung cấp vật liệu rẽ có phẩm chất cao vì họ có thể mua với giá sỉ và có hệ thống quảng cáo mạnh mẽ và hữu hiệu (marketing system). Đã có xuất hiện một số thương hiệu franchise hầu hết là tiệm nails trong cộng đồng người Việt. Đáng tiếc là đa số các hiệu nails này hình như vẫn chưa được phát triển đúng mức. Có một số thương hiệu chỉ cho mượn cái tên để vào được trung tâm thương mại (shopping centres) mà thôi. Không có tài liệu hướng dẫn, huấn luyện kỹ năng, cung cấp hàng hóa hoăc quảng cáo gì cả. Thậm chí có lúc có tới hai tiệm nails cùng tên trong một trung tâm thương mại làm mất giá trị của thương hiệu.

Một khía cạnh quan trọng khác là hợp đồng thuê mướn shop. Hầu hết các công ty làm chủ các thương hiệu nổi tiếng đều đứng tên ký hợp đồng thuê mướn shop (lease) vì họ dễ dàng được chấp thuận bởi những trung tâm thương mại lớn) như Westfields, Stocklands, Centro. Ngược lại thì tiền thuê mướn trong các trung tâm này rất cao và franchisee phải lệ thuộc vào khả năng và sức mạnh thương lượng của franchisor. Những thương hiệu mới ra thường hay yêu cầu franchisee tự ký lease vì họ không muốn gánh trách nhiệm trả tiền mướn với chủ shop nếu franchisee làm ăn thua lỗ và phải đóng cửa. Một điểm khác thường gây khó chịu cho franchisee là một số franchisor đòi hỏi phải chia lời khi bán lại franchise. Những điều kiện như vậy đẩy cán cân nghiêng quá nhiều về phía franchisor và cần phải được thương lượng lại cho công bằng.

Tóm lại, franchise có thể là một hình thức làm ăn nhỏ thuận tiên cho nhiều gia đình người Việt. Nhưng nó đòi hỏi nỗ lực điều tra và tìm hiểu cũng như sự cần cù và siêng năng. Một số thương gia Việt nam thành công cũng có thể nghĩ tới việc phát triển thương hiệu của họ trên toàn quốc và trên toàn thế giới. Nhưng họ phải nghĩ tới việc hệ thống hoá phương cách làm ăn và tiến hành soạn thảo văn bản tài liệu hướng dẫn (operations manual). Chúng ta hy vọng là trong tương lai cũng sẽ nhìn thấy nhiều thương hiệu nổi tiếng của người Việt nam đứng ngang hàng với những thương hiệu quốc tế trên thị trường thế giới.


 

Comments

Popular posts from this blog

PHÁP LUẬT PHỔ THÔNG - LS NGUYỄN VĂN THÂN

Từ Thuộc địa tới Liên Bang Úc

Luật phỉ báng