Bản quyền

 


Credit: businessinsider.com.au

Ls Nguyễn Văn Thân

Mục đích chính của luật bản quyền là cho phép tác giả gồm có nhà văn, nghệ sĩ, họa sĩ, người làm phim ảnh…được độc quyền sử dụng hoặc bán lại tác phẩm xuất phát từ công sức lao động và sáng tạo của chính họ. Vì vậy, bản quyền căn bản là một quyền kinh tế chú trọng vào việc khai thác sản phẩm trí tuệ hoặc sáng tạo để kiếm tiền và vì vậy chẳng những tác giả mà cả nhà xuất bản hoặc công ty sản xuất cũng được luật pháp bảo vệ quyền lợi trong lĩnh vực này.

Mặt khác, luật bản quyền tại Âu châu không chỉ bảo vệ quyền lợi kinh tế mà còn bảo vệ “quyền đạo lý” (moral rights) cho phép tác giả kiểm soát việc sử dụng sản phẩm của họ ngay cả đối với nhà xuất bản trong tiến trình quảng bá và rao bán. Những quyền lợi này cũng được bắt đầu áp dụng tại Úc từ năm 2000 gồm có quyền được ghi nhận tên tác giả và quyền ngăn cản người khác sửa đổi sản phẩm có thể làm ảnh hưởng đến uy tín của tác giả.

Khái niệm về bản quyền xuất phát từ Anh quốc từ thế kỷ 16 khi các nhà in được độc quyền in sách. Thật ra thì đây là một chính sách kiểm duyệt của nhà vua nhằm bảo vệ uy tín của hoàng gia và ngăn cấm sự phổ biến sách vở tài liệu được coi là phỉ báng hoàng gia hoặc tôn giáo. Kế tiếp là sự ra đời của Đạo luật Anne 1709 (Statute of Anne) cho phép tác giả được độc quyền sử dụng và khai thác tác phẩm của họ tới 28 năm. Dĩ nhiên là tác giả có quyền chuyển nhượng lại cho nhà xuất bản. Luật bản quyền tiếp tục được nới rộng để bảo vệ tác giả của những tác phẩm nghệ thuật khác nhau như tranh ảnh, kịch bản, lời nhạc, âm thanh nhạc, phim ảnh và cả những màn trình diễn trên sân khấu. Tới năm 1886 thì thỏa ước Berne, Thụy sĩ (Berne Convention) ra đời và chính thức nâng cấp bảo vệ tác quyền lên tầm vóc quốc tế.

Luật bản quyền Anh được du nhập vào Úc từ giữa thế kỷ 19. Đạo luật Copyright thứ nhất ra đời vào năm 1905. Đạo luật này được thay thế vào năm 1968 để giải quyết vấn đề bản quyền liên hệ tới các thư viện và trường học. Gần đây hơn, kỹ thuật điện số bùng nổ trong thế kỷ 20 và Đạo luật Copyright lại được tu chính để áp dụng cho các hệ thống truyền thông và truyền tin điện số cũng như các chương trình điện toán.

Luật bản quyền bảo vệ 4 loại tác phẩm: văn học, kịch nghệ, nghệ thuật và âm nhạc. Tác phẩm văn học bao gồm thi văn, sách vở, tiểu thuyết, bài viết, lời nhạc, lời phỏng vấn, thư từ, điện thư, bản hướng dẫn, thời khoá biểu và chương trình điện toán. Tác phẩm kịch nghệ gồm có kịch bản, đoạn phim, cảnh trí, màn trình diễn. Âm nhạc bao gồm thu âm, thu hình và lời nhạc và nghệ thuật gồm có các tác phẩm tranh họa, điêu khắc, hình chụp, hình vẽ, họa đồ, kiến trúc.

Để có bản quyền thì tác phẩm phải được ghi chép hoặc diễn đạt qua một hình thức cụ thể và hữu hình. Luật bản quyền không bảo vệ ý kiến, thông tin hoặc khái niệm trừu tượng cho dù nó có nguyên thủy thế nào đi nữa.

Điều kiện thứ hai là tác phẩm phải có tính cách nguyên thủy do sức lao động và sáng tạo của chính tác giả. Có nghĩa là không chỉ là một sự sao chép từ một tác phẩm khác. Nguyên thủy ở đây không bắt buộc phải là một sáng kiến chưa từng ai nghĩ ra mà chỉ cần hình thức diễn đạt này chưa từng được sử dụng hoặc phổ biến. Ví dụ như nếu có 2 họa sĩ cùng đi đến một địa điểm và vẽ lên hình ảnh của chỗ đó thì cả hai đều được bản quyền với tác phẩm của họ. Cũng không có ai có thể cấm người khác đến chỗ đó vẽ miễn là không có sao chép lại.

Tại Úc, tác giả đương nhiên có bản quyền. Khác với bằng sáng chế (patents), thương hiệu (trademark) và thiết kế (designs), tác giả không cần phải thông báo hoặc đăng ký với ai trước. Miễn là tác giả hội đủ một số điều kiện gồm có là công dân hoặc thường trú nhân Úc và tác phẩm được đầu tiên phổ biến tại Úc hoặc tại một quốc gia có ký kết hiệp ước bảo vệ bản quyền. Tuy nhiên, tác giả cũng có thể sử dụng dấu hiệu bản quyền © để thông báo cho mọi người biết là tác giả tự ghi nhận tác  quyền. Tác giả nên lưu trữ ngày tháng và bản sao của tác phẩm. Ít có khi nào có sự tranh cãi ai là tác giả nhưng nếu sự việc này ra tòa thì tòa sẽ cứu xét bằng chứng gồm có bằng chứng của các nhân chứng liên hệ như nhà bạn bè, những người đã được tác giả cho xem bản thảo hoặc xuất bản để quyết định ai chính là tác giả của tác phẩm.

Chủ nhân bản quyền

Thông thường thì tác giả làm chủ bản quyền trong các tác phẩm văn học, kịch nghệ, nghệ thuật và âm nhạc. Nếu có nhiều tác giả cùng hợp tác tạo ra tác phẩm thì tất cả được coi như làm chủ chung bản quyền của tác phẩm đó. Người sản xuất phim ảnh làm chủ bản quyền cuộn phim bào gồm hình ảnh và âm thanh. Người thu âm làm chủ bản quyền của phần thu âm. Chủ nhân TV, radio và trang mạng làm chủ tác phẩm và tài liệu phổ biến trên làn song và trang mạng của họ. Nhà xuất bản làm chủ phiên bản của tác phẩm. Sở hữu bản quyền các tác phẩm do công nhân làm ra trong lúc làm việc thuộc về chủ nhân của họ trừ khi hợp đồng thuê mướn lao động ghi khác. Khi tác giả được thuê mướn tạo ra tác phẩm cho một mục đích nào đó, tác giả làm chủ bản quyền nhưng người thuê trả tiền được phép sử dụng tác phẩm cho mục đích đó. Ví dụ khi chủ nhà thuê kiến trúc sư thực hành bản vẽ, chủ nhà có quyền dùng bản vẽ để cất nhà của họ nhưng không được sử dụng cho mục đích khác. Tất cả các điều lệ tổng quát này đều có thể được thay đổi bằng văn bản hợp đồng.

Chủ nhân bản quyền có quyền sao lại, phổ biến tác phẩm, trình diễn tác phẩm trước công chúng hoặc cho phép người khác sử dụng tác phẩm có hoặc không có trả lệ phí. Một trong những hình thức bản quyền quan trọng là quyền phỏng tác (adaptation rights). Ví dụ như tác giả của một bộ truyện tiểu thuyết (Harry Potter) có quyền kiểm soát hoặc được trả lệ phí khi tác phẩm của họ được dịch lại hoặc được phỏng theo để làm phim, làm kịch…

Bản quyền là một loại tài sản có thể cho thuê, mua bán hoặc sang nhượng như bất cứ tài sản nào khác ngoại trừ những quyền hạn không có tính tài chính của tác giả gồm có quyền được ghi nhận tên tác giả và quyền bảo quản tác phẩm được trọn vẹn. Với những tác phẩm đã được phổ biến, bản quyền thông thường sẽ kéo dài tới 70 năm tính từ ngày chết của tác giả.  Với những tác phẩm chưa được phổ biến khi tác giả còn sống, bản quyền sẽ hết hạn sau 70 năm kể từ ngày tác phẩm được phổ biến.

Vi phạm bản quyền

Khi sử dụng tác phẩm của người khác mà không được phép thì sẽ vi phạm bản quyền. Sử dụng một phần của tác phẩm cũng có thể vi phạm bản quyền nếu đó là một phần lớn hoặc quan trọng của tác phẩm. Cho phép người khác sử dụng tác phẩm mà không có phép của tác giả cũng là một hình thức vi phạm bản quyền ví dụ nhu khi chủ nhà cho hàng xóm mượn bản vẽ mà kiến trúc sư của họ đã làm để cất nhà của người hàng xóm. Nhập cảng sản phẩm vi phạm bản quyền cũng phạm luật.

Để quân bình bản quyền với quyền được sử dụng tác phẩm của quần chúng, luật pháp đề ra một số trường hợp ngoại lệ cho phép sử dụng tác phẩm mà không vi phạm bản quyền. Thứ nhất là sử dụng công bằng (fair dealing). Đây là những trường hợp khi có người sử dụng tác phẩm với mục đích nghiên cứu hoặc học vấn, để chỉ trích hoặc phê bình tác phẩm, để tường thuật tin tức, để diễu cợt hoặc trong tiến trình cố vấn cho thân chủ của luật sư hoặc chuyên viên sở hữu trí tuệ (IP attorney). Mỗi trường hợp sẽ dựa trên một vài yếu tố cụ thể ví dụ như việc sử dụng có cần thiết cho mục đích nghiên cứu hoặc tư vấn hay không? Người sử dụng có tạo thiệt hại hoặc ảnh hưởng tài chính bất lợi cho tác giả hay không?

Thứ hai là điều lệ 10%. Sao chép hoặc sao chụp (photocopy) 10% của tác phẩm thường được xem là không có trở ngại. Trong tiến trình nghiên cứu thì có thể sao chép hoặc sao chụp một chương sách cho dù một chương này có số trang nhiều hơn 10%. Ngoài rà, có thể sao chụp, đổi dạng ví dụ từ video qua DVD, thu lại đĩa nhạc với mục đích sử dụng riêng tư và trong nhà. Các thư viện và trường học cũng có quyền hạn đặc biệt được sử dụng sách vở và tài liệu thoải mái mà không cần xin phép từng tác giả.

Khi có người vi phạm bản quyền, tác giả có thể xin án lệnh của tòa ngăn cản bị đơn không được tiếp tục vi phạm và trả tiền bồi thường hoặc bắt buộc bị đơn phải trao hết số tiền lợi nhuận kiếm được từ sự vi phạm. Vi phạm bản quyền cũng có thể là một tội phạm hình sự có thể bị cảnh sát và viên chức hải quan truy tố.

Tóm lại, luật bản quyền giới hạn quyền thông tin và giải trí qua việc cấm đoán sử dụng tác phẩm không được phép của tác giả và nhà xuất bản nhưng nó cũng là nền móng bảo đảm cho sự phát triển văn học, văn hóa và nghệ thuật. Nếu không có luật bản quyền thì các nhà văn, tác giả, nghệ sĩ, ca sĩ…sẽ không có đất sống. Khi chúng ta chỉ muốn hoặc vui vẻ trả 1 đồng cho một tác phẩm hoặc đĩa nhạc mới ra do các nhà sản xuất ví dụ như Trung tâm Asia, Thúy Nga… thì có nghĩa là chính mình cũng đang góp phần tiêu diệt nền nghệ thuật âm nhạc Việt nam tại hải ngoại.

MỘT VÀI VỤ KIỆN VỀ LUẬT TÁC QUYỀN LIÊN QUAN TỚI TÁC QUYỀN VÀ TRUYỀN THÔNG

The Commonwealth of Australia v John Fairfax & Sons Ltd (1980) 147 CLR 39

Nguyên đơn là Úc Đại lợi và bị đơn là nhà công ty truyền thông xuất bản các tờ nhật báo lớn tại Úc gồm có Sydney Morning Herald tại Sydney và The Age tại Melbourne. Vào tháng 10, 1980, bị đơn đồng ý trả một số tiền cho nhà xuất bản quyển sách mang tựa đề “Văn kiện về Chính sách Quốc phòng và Ngoại giao Úc 1968-1975” để đăng tải một vài chương của quyển sách này trên báo The Age và SMH. Nội dung quyển sách gồm có các tài liệu mật như điện thư, báo cáo ngoại giao liên quan tới Cuộc Khủng hoảng Đông Timor, căn cứ quân sự của Mỹ tại Úc, sự hiện diện của hải quân Xô viết trong Ấn độ dương, Hiệp Ước ANZUS giữa Úc, Tân Tây lan và Hoa kỳ. Nguyên đơn xin tòa ngăn cấm bị đơn đăng tải các tài liệu này. Một trong những lý do nêu ra là nguyên đơn là tác giả của các tài liệu đó và không đồng ý cho bị đơn phổ biến.

Bị đơn nhìn nhận nguyên đơn là tác giả nhưng lập luận rằng Đạo luật Tác quyền cho phép bị đơn sử dụng công bằng (fair dealing) trong tiến trình phân tích, phê bình và tường thuật tin tức. Thẩm phán Mason của Tối cao Pháp viện phán rằng sử dụng tài liệu mật thì khó mà được coi như công bằng vì tác giả không muốn phổ biến. Có nghĩa là khi nào tác giả phổ biến tác phẩm thì truyền thông mới có thể đặt vấn đề sử dụng công bằng trong tiến trình phê bình và tường thuật tin tức. Hơn nữa, không thể đăng lại đầy đủ tài liệu muốn phê bình để phê bình.

Tuy nhiên, Mason cũng phán là “tin tức” không cần phải “đang diễn ra” (current). Có nghĩa là truyền thông có thể sử dụng công bằng tác phẩm của người khác khi tường thuật tin tức cho dù nội dung của tác phẩm đó không có thời gian tính.

Re Brian Kelvin De Garis and Matthew Moore v Neville Jeffress Pidler Pty Limited [1990] FCA 218

Nguyên đơn là ký giả và tác giả của một số bài báo. Bị đơn cung cấp dịch vụ thông tin (press clipping). Người nào muốn tìm thông tin về một đề tài nào đó có thể liên lạc với bị đơn. Bị đơn sẽ tìm lục các bài báo về đề tài này, photocopy rồi bán cho người đặt hàng, trong đó có bài viết của nguyên đơn.

Bị đơn dựa vào luận cứ sử dụng công bằng trong tiến trình phân tích, phê bình và tường thuật tin tức. Luận cứ này không được tòa chấp thuận. Phân tích và phê bình đòi hỏi sức lao động trí tuệ nhận xét và phê bình nội dung của bài báo. Tường thuật tin tức phải cung cấp thông tin thông thường nhưng không nhất thiết là mới. Đàng này bị đơn chỉ tìm kiếm tựa bài cho đúng đề tài và góp nhặt lại. Hình thức làm ăn này không liên quan gì tới việc tường thuật tin tức.

Nine Network Australia Pty Ltd v Australian Broadcasting Corporation (1999) 48 IPR 333

Nguyên đơn là Đài Truyền hình số 9 và bị đơn là Đài ABC. Nguyên đơn ký hợp đồng trả $450,000 cho Hội Đồng Thành phố Sydney để làm Đài Truyền Hình Chính thức trong chương trình đón mừng thiên niên kỷ mới vào đêm 31/12/1999 tại Sydney. Chương trình gồm có trình diễn pháo bông và âm nhạc tại Harbour Bridge. Mười tám chiếc xuồng lớn chở lồng đèn mang hình của nhiều động vật sống dưới biển sẽ đi vòng quanh harbour. Sự kiện này sẽ được quay phim và trình chiếu khắp nơi trên toàn thế giới. Chi phí tổ chức lên tới 3 triệu Úc kim.

Nguyên đơn được độc quyền quay phim tất cả các màn trình diễn, pháo bông và chương trình văn nghệ và trình chiếu trên toàn nước Úc và Papua New Guinea.

Bị đơn thỏa thuận với một nhóm đài truyền hình của một số quốc gia là sẽ luân phiên trình chiếu cảnh đón mừng thiên niên kỷ mới ở khắp mọi nơi trên toàn thế giới. Chương trình truyền hình trực tiếp của bị đơn sẽ được điều khiển bởi hai danh hài nổi tiếng là Roy Slaven và H.G Nelson (nghệ danh).

Nguyên đơn xin tòa ngăn cản bị đơn không được trình chiếu những cảnh bắn pháo bông, xuồng chở lồng đèn và những hình ảnh tại Harbour Bridge viện dẫn lý do là nguyên đơn có độc quyền trình chiếu những cảnh này.

Đây không phải là một phiên xử toàn diện mà chỉ tạm thời. Nguyên đơn đã biết bị đơn có ý định trình chiếu từ tháng 8 nhưng tới ngày 13 tháng 12, 1999 mới bắt đầu thủ tục xin tòa ngăn cấm bị đơn tiến hành ý định. Thẩm phán Hill của Tòa Liên bang không khẳng định nguyên đơn thật sự có tác quyền của những hình ảnh này hay không nhưng cho rằng bị đơn có quyền sử dụng công bằng trong tiến trình phân tích, phê bình và tường thuật tin tức.

Thật ra thì những cảnh đón mừng năm mới thuộc về giải trí nhiều hơn. Nhưng giải trí cũng là một phần của tin tức. Người điều khiển chương trình là danh hài sử dụng ngôn ngữ hài hước không có nghĩa là họ không tường thuật tin tức về những gì diễn ra trong ngày cuối trước thiên niên kỷ mới. Đón mừng Năm mới là sự kiện quan trọng có tầm vóc quốc gia và quốc tế. Tường thuật sự kiện này rõ ràng là tường thuật tin tức liên quan tới công chúng mà nhiều người muốn biết.

Ngoài ra, Điều 65 và 67 của Đạo luật Tác quyền cũng cho phép sử dụng hình ảnh của các tòa nhà (buildings) nếu như vị6c sử dụng này chỉ có tính cách phụ hoặc ngẫu nhiên. Sydney Harbour Bridge lại là một cấu trúc công cộng mà bất cứ ai cũng có quyền chụp hình và quay phim mà không cần xin phép.

TCN Channel Nine Pty Limited v Network Ten Pty Limited (No 2) [2005] FCAFC 53

Nguyên đơn là đài truyền hình số 9 và bị đơn là đài số 10. Trong chương trình "The Panel của đài số 10 thì bị đơn sử dụng các đoạn phim ngắn từ 8-42 giây của một số chương trình của nguyên đơn với mục đích thảo luận và chế giễu. Nguyên đơn kiện vá tố rằng bị đơn vi phạm tác quyền khi trình chiếu lại 20 đoạn phim do nguyên đơn làm ra. Thẩm phán Conti của Toà Liên bang cho rằng bị đơn không vi phạm bản quyền vì không chiếu lại một đáng kể chương trình của nguyên đơn (substantial part). Hơn nữa, bị đơn có mục đích khác khi chiếu lại các đoạn phim này và việc làm này không gây thiệt hại tài chánh cho nguyên đơn.

Nguyên đơn kháng cáo và Tòa Kháng cáo liên bang phán rằng trong 20 đoạn phim thì có 9 đoạn được coi như là sử dụng công bằng trong tiến trình phân tích, phê bình và tường thuật tin tức, 5 đoạn không vi phạm và 6 đoạn vi phạm.

Để vi phạm thì bị đơn được xem như đã chiếu lại một phần đáng kể chương trình của nguyên đơn. Tiêu chuẩn "đáng kể" ám chỉ "phẩm chất" chớ không phải "số lượng".  Các yếu tố được tòa cứu xét gồm có:

·         Mức độ quan trọng của đoạn phim chiếu lại?

·         Đoạn phim này có phải là điểm chính (highlights) hay không?

·         Đoạn phim đó nói lên ý nghĩa của nguyên chương trình hay không?

·         Đoạn phim có phải là trọng tâm của toàn chương trình hay không?

Vấn đề nguyên đơn có hay không bị thiệt hại tài chánh thì không quan trọng, cũng như bị đơn không có quyền vi phạm tác quyền của nguyên đơn chỉ vì bị đơn có mục đích khác khi chiếu lại phim do nguyên đơn làm ra.

Tới năm 2006 thì Luật Tác quyền được tu chính và cho phép luận cứ biện hộ nhái diễu và châm biếm. Nếu như vụ kiện này lập lại thì luận cứ biện hộ mới này có thể bảo vệ bị đơn với điều kiện là những yếu tố khác ví dụ như ghi nhận đầy đủ nguồn tin và tác giả của tác phẩm hoặc đoạn phim được trình chiếu lại.

Comments

Popular posts from this blog

PHÁP LUẬT PHỔ THÔNG - LS NGUYỄN VĂN THÂN

Từ Thuộc địa tới Liên Bang Úc

Luật phỉ báng