Hợp đồng tài chính hôn nhân
Ls Nguyễn Văn Thân
Bắt đầu từ ngày 27 tháng 12
năm 2000 thì các cặp vợ chồng được quyền thỏa thuận ký hợp đồng tài chính quyết
định cách thức phân chia tài sản hoặc trợ cấp cho người phối ngẫu. Trước đó thì
tất cả mọi việc phải đi qua hệ thống Tòa án Gia đình. Ngay cả khi cặp vợ chồng
đã đạt đồng thuận thì cũng phải đệ đơn xin án lệnh đông thuận (consent orders).
Tòa không đương nhiên ban hành án lệnh đồng thuận nếu các điều khoản không tuân
thủ những nguyên tắc phân chia tài sản theo Đạo luật Gia đình (Family Law Act
1975).
Theo các con số thống kê thì
trong năm 2005 có tổng cộng 52,400 vụ ly dị trên toàn nước Úc so với 55,300 vụ
trong năm 2001. Người Úc ngày kết hôn trễ hơn. Trong năm 2005 thì tuổi trung
bình thành hôn của đàn ông là 30 và phụ nữ là 28. Người ta cũng ly dị ở tuổi
già hơn trung bình là 43.5 tuổi cho đàn ông so với 40.8 đối với phụ nữ. Các cuộc
hôn nhân lần đầu ước lượng kéo dài khoảng 14 năm so với 11 năm trong thập niên
80. Khoảng 56% số đàn ông sau khi ly dị lại tái hôn so với 46% đối với phụ nữ.
Trong thập niên 70 và 80 thì
có nhiều người đề nghị luật pháp nên thay đổi và cho phép các cặp vợ chồng được
quyền ký kết và thỏa thuận hình thức phân chia tài sản trước, trong và sau cuộc
hôn nhân để họ có thể chủ động tự giải quyết vấn đề và giảm thiểu tác hại tâm
lý và tốn kém khi phải đưa sự việc ra Tòa án Gia đình.
Hiện nay, có 4 loại hợp đồng
tài chính mà các cặp vợ chồng có thể ký kết. Thứ nhất là hợp đồng tiền hợp nhân
(prenuptial agreement) có thể ký khi hai người có ý định hoặc sắp sửa thành
hôn. Thứ hai là hợp đồng trong hôn nhân nhưng trước khi ly thân để có sự chắc
chắn nếu như hôn nhân đổ vỡ. Thứ ba là hợp đồng sau khi ly thân và sau cùng là
hợp đồng sau khi ly dị. Kể từ ngày 1 tháng 3 năm 2009 thì các cặp vợ chồng ngoại
hôn (de facto couples) cũng được quyền ký kết hợp đồng tài chính như là các cặp
vợ chồng có giá thú.
Những
điều kiện cần thiết
Hợp đồng tài chính phải tuân
thủ triệt để điều kiện pháp lý. Bằng không thì sẽ không có giá trị. Trước hết
thì hợp đồng phải bằng văn bản. Cặp vợ chồng phải có 2 luật sư đại diện khác
nhau chớ không dùng chung được một luật sư. Hai vợ chồng (hoặc hôn phu/hôn thê)
cùng hai luật sư làm chứng phải ký vào mỗi trang của văn bản hợp đồng. Trước
khi ký chứng, luật sư phải giải thích là hợp đồng có lợi hay bất lợi cho thân
chủ và so sánh những điều đồng thuận với kết quả có thể đạt được nếu sự việc được
đưa ra tòa xử. Một số người hiểu lầm là luật sư chỉ cần nhắm mắt làm chứng là đủ
vì họ đã đồng ý trước với nhau rồi. Sự thật thì không đơn giản như vậy. Nếu luật
sư không tuân thủ đúng các điều kiện luật pháp đặt ra thì hợp đồng tài chánh có
thể mất giá trị. Chỉ cần có chút sơ hở thì cũng đủ dễ dàng đưa đến kiện tụng tốn
kém vì tòa rất gắt gao là hợp đồng tài chính phải triệt để tuân thủ mọi điều kiện
pháp lý.
Hợp đồng tài chính nên ghi lại
chi tiết lịch sử của cuộc hôn nhân gồm có sự đóng góp về tài chính và công sức
cũng như vai trò phụ huynh của hai người. nên liệt kê những sự kiện bất thường
trong cuộc hôn nhân ví dự như có ai nhận được một số tiền bồi thường tai nạn xe
cộ hoặc lao động hay không. Có ai trúng số hoặc được thừa hưởng gia tài đáng kể
hay không? Hoàn cảnh của hai người hiện tại thế nào? Có ai đã tái hôn và có con
nhỏ hay không? Sức khỏe ra sao có ảnh hưởng đến khả năng tìm việc hoặc làm việc
hay không?
Trong thời gian gần đây thì có
một số người Úc gốc Việt về Việt nam lập gia đình nhưng muốn ký hợp tiền hôn
nhân với người phối ngẫu ở Việt nam. Vậy luật sự ở Việt nam có thể ký chứng được
không? Câu trả lời là không. Đạo luật Gia đình ghi rõ luật sư phải là người có
chứng chỉ hành nghề tại Úc do các hiệp hội luật sư tại các tiểu bang hoặc lãnh
thổ cấp cho (practising certificate). Trong vụ Ruane & Bachman-Ruane
(2009), tòa phán là hợp đồng tài chính được ký chứng bởi một luật sư người Anh
quốc không có giá trị mặc dù hệ thống luật gia đình giữa hai quốc gia tương đối
khá giống nhau. Trong vụ Murphy v Murphy (2009), tòa cũng phán là các giảng
viên luật tại Úc tuy có kiến thức và hiểu biết về luật gia đình nhưng nếu không
đăng ký hành nghề luật sư thì cũng không có quyền chứng ký hợp đồng tài chính.
Lợi ích của hợp đồng tài chính
Hợp đồng tài chính có nhiều lợi
ích. Thứ nhất, hai người chủ động tự quyết định tài sản sẽ được phân chia thế
nào khi họ chia tay mà không đụng tới tòa án. Văn bản hợp đồng có thể ghi rõ
chi tiết và hoàn cảnh của hai người trước khi thành hôn hoặc ly thân dễ dàng
cho mọi người nhìn thấy điều kiện hoặc tỷ lệ phân chia là hợp tình và hợp lý. Với
hợp đồng tiền hôn nhân thì người có nhiều tài sản có thể “loại” (quarantine) phần
lớn tài sản đã có trước khi thành hôn và chỉ có những tài sản nào mua sắm sau
khi thành hôn thì mới bị phân chia. Phí tổn luật sư soạn thảo hợp đồng tài
chính ít hơn nhiều so với việc nếu phải đưa vấn đề ra tòa xử. Quy chế miễn thuế
con niêm và những loại thuế khác áp dụng cho hợp đồng tài chính giống như án lệnh
đồng thuận của tòa. Trong nhiều trường hợp, hai người trong cuộc có tài sản hoặc
hoàn cảnh riêng tư mà họ không muốn tiết lộ ra. Nếu sử dụng án lệnh đồng thuận
thì phải nộp đơn với tòa kê khai đủ chi tiết. Hợp đồng tài chánh giữ kín được
những bí mật này. Ngoài ra với án lệnh đồng thuận, nếu điều kiện phân chia quá
chênh lệch và bất thường thì tòa có thể từ chối chuẩn y hoặc sẽ triệu tập luật
sư hoặc cả hai bên ra tòa để hỏi cho ra lẽ. Đối với những người vợ làm thêm may
vá ở nhà không có khai thuế thì sẽ tạo khó khăn.
Hợp đồng tài chính rất hữu dụng
trong những trường hợp ví dụ như khi một người đã có sẵn nhiều tài sản hoặc sắp
sửa thừa hưởng gia tài đáng kể, hoặc những người đã có con và muốn để lại tài sản
cho con trước khi tái hôn, hoặc để bảo quản doanh nghiệp của gia đình. Hãy thử
tưởng tượng nếu những tay tỷ phú như Rupert Murdoch hoặc James Packer không ký
hợp đồng tài chính thì làm sao giữ được gia sản khi người nào cũng lấy và ly dị
tới mấy người vợ? Trong trường hợp một trong hai người làm ra rất nhiều tiền
thì hợp đồng tiền hôn nhân có thể ghi nhận điểm này và đặt điều kiện phân chia
được công bằng hơn. Hợp đồng tiền hôn nhân phần nào bắt buộc hai bên phải thẳng
thắn đối thoại và cởi lòng với nhau. Nếu cả hai người đang có việc làm với
lương cao nhưng muốn có con thì ai sẽ là người hy sinh sự nghiệp và lỡ như hôn
nhân đổ vỡ thì tài sản sẽ được phân phối ra sao? Với những người đã từng ly dị
và kiện tụng với Tòa án Gia đình thì hợp đồng sẽ giúp họ tránh được quá khứ đau
buồn và tốn kém lập lại nếu cuộc hôn nhân kế tiếp cũng không thành công.
Dĩ nhiên thì hợp đồng tài chính cũng có những mặt tiêu cực của nó nhất là hợp đồng tiền hôn nhân. Nhiều người cho rằng trước khi cưới nhau mà đặt vấn đề tiền bạc thì coi như đã không tin tưởng nhau hoặc không tin là cuộc hôn nhân có thể kéo dài. Chiếc nhẫn cưới cầu hôn mất đi hết tính lãng mạn của nó khi đi kèm theo là một văn bản giao kèo. Thông thường thì hai người ở hai hoàn cảnh mạnh yếu khác nhau. Một phụ nữ trẻ tuổi từ một quốc gia nghèo nàn xa lạ về ngôn ngữ và văn hóa Úc thường ở thế yếu kèm và phải chịu thiệt thòi. Họ không có cơ hội thương lượng các điều khoản hợp đồng một cách công bằng và hợp lý.
Khi
nào thì hợp đồng có thể trở thành vô hiệu
Hợp đồng tài chính có thể trở
thành vô hiệu khi có sự gian dối gồm có việc không kê khai tài sản đầy đủ. Nếu
có người cố tình dàn xếp để cho người khác đúng tên tài sản của mình thì có thể
được coi là gian lận. Còn có tài sản mà không kê khai dù vô tình hay cố ý cũng
có thể làm hợp đồng trở thành vô hiệu. Hoặc khi hợp đồng có mục đích tẩu tán tài
sản gây thiệt hại cho chủ nợ ví dụ như trong trường hợp của ông Jodee Rich cựu
giám đốc công ty điện thoại bị phá sản One.Tel. Ông Rich ký hợp đồng phân chia
tài sản trước khi ly thân với vợ ông nhưng tòa cho rằng hợp đồng này có mục
đích tẩu tán tài sản chớ không thật sự để bảo đảm cuộc sống cho vợ con ông
trong trường hợp hôn nhân sụp đổ.
Vì hợp đồng tài chánh là một
hình thức hợp đồng nên luật hợp đồng áp dụng như bất cứ hợp đồng nào khác. Hợp
đồng không rõ ràng, không đầy đủ, hoặc được ký trong trường hợp bị ép buộc về mặt
thể chất lẫn tinh thần có thể sẽ không có hiệu lực. Hoặc khi có người lợi dụng
hoàn cảnh đơn cô thế yếu của vị hôn thê hoặc hôn phu ví dụ như khi đưa ra hợp đồng
vào giờ chót và hăm dọa hủy bỏ hôn nhân cũng như bảo trợ visa cho người phối ngẫu
thì có thể sẽ bị tòa vô hiệu hóa vì cung cách hành xử không có lương tâm như vậy.
Sau khi thành hôn, nếu hoàn cảnh thay đổi ví dụ như người vợ sanh tới mấy đứa
con và có đứa mang bệnh hoặc tật nguyền thì tòa có thể phán là hợp đồng không
có giá trị.
Tóm lại, hợp đồng tài chính là
một công cụ thuận tiện cho nhiều cặp vợ chồng trong vấn đề phân chia tài sản vì
họ có thể tự giải quyết vấn đề một cách mau chóng và ít tốn kém cũng như bảo vệ
được những chi tiết riêng tư. Hợp đồng tiền hôn nhân có thể hữu dụng trong một
số trường hợp đặc biệt cho những người đã từng ly dị và chuẩn bị bước đến cuộc
hôn nhân thứ hai hoặc thứ ba cũng như khi tài sản và doanh nghiệp gia truyền cần
được bảo vệ. Tuy nhiên, hợp đồng tiền nhân có nhiều điểm tiêu cực và có nguy cơ
bị phán là không có giá trị nếu như không được soạn thảo đúng đắn và có chừng mực.
Trong cộng đồng người Việt thì ngày càng có nhiều cha mẹ khi sắp đến tuổi về
hưu thì để con cái đứng tên làm chủ tài sản. Nhưng họ lo ngại là khi lập gia
đình thì tài sản này có nguy cơ bị mất nếu hôn nhân của con họ đổ vỡ. Đây là một
mối lo ngại chính đáng và hợp đồng tiền hôn nhân có thể giúp bảo quản tài sản của
cha mẹ và chỉ có những phần tài sản mà hai vợ chồng mua sắm sau khi thành hôn mới
bị phân chia. Suy ra thì trong xã hội nào cũng vậy, tiền và tình mãi là hai thứ
làm cho người ta nhức đầu. Có câu “có tiền mua tiên cũng được” nhưng lại có khá
nhiều người có tiền mà không mua được tình yêu và hạnh phúc.
Comments
Post a Comment