Phán quyết của Tối cao Pháp viện Mỹ về hôn nhân đồng tính
Credit: library.law.howard.edu
Ls Nguyễn Văn Thân
Vào ngày 26 tháng 6 năm 2015,
Tòa Thượng Thẩm Liên Bang (US Federal Supreme Court) tức Tối Cao Pháp Viện Hoa
Kỳ đã ban hành phán quyết hợp thức hóa hôn nhân đồng tính. Trong vụ kiện Obergefell v Hodges, Tòa phán rằng luật
của các tiểu bang ngăn cấm hôn nhân đồng tính vi phạm Tu Chính Án 14 và do đó bất
hợp pháp. Phán quyết này là một thắng lợi lớn của phong trào ủng hộ hôn nhân đồng
tính.
Theo hệ thống liên bang, luật
pháp liên quan tới tình trạng hôn nhân phần lớn thuộc về quyền hạn của các tiểu
bang. Trước năm 1996, luật liên bang không cung cấp định nghĩa "hôn nhân" là gì và bất cứ cuộc hôn
nhân nào hợp pháp dưới luật của tiểu bang thì cũng được chính quyền liên bang
công nhận.
Vụ kiện đầu tiên liên quan tới
hôn nhân đồng tính diễn ra vào năm 1971. Trong vụ Baker v Nelson, Tòa Thượng Thẩm Minnesota phán rằng người đồng tính
không được quyền kết hôn vì họ không thể sinh đẻ và có khả năng nuôi con như là
những cặp vợ chồng khác mà đó là hai yếu tố cần thiết trong nền tảng hôn nhân.
Nhưng tới năm 1993 thì Tòa Thượng Thẩm Hawaii trong vụ kiện Baehr v Lewin phán rằng luật cấm hôn
nhân đồng tính có thể vi phạm hiến pháp vì lý do kỳ thị hoặc đối xử phân biệt với
các cặp đồng tính. Massachusetts trở
thành tiểu bang đầu tiên hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính trong năm 2004.
Trong vụ kiện United States v Windsor trong năm 2013,
nguyên đơn bà Edith Windsor sinh năm 1929 thành hôn hợp pháp với bà Thea Spyer
vào năm 2007 tại Ontario Canada. Hôn nhân này được tiểu bang New York nơi họ cư
ngụ công nhận vào năm 2008. Thea qua đời trong tháng 2 năm 2009 và để lại tài sản cho Edith. Nhưng
Edith bị bắt phải đóng thuế vì dưới Đạo Luật Bảo Vệ Hôn Nhân Liên Bang (Defence
of Marriage Act) 1996, hôn nhân được định nghĩa là sự kết hợp giữa một người
đàn ông và một phụ nữ. Sở thuế bắt Edith phải đóng thuế thừa kế lên tới
$363,053.
Edith kháng cáo và Tối Cao
Pháp Viện Hoa Kỳ phán rằng Đạo Luật Bảo Vệ Hôn Nhân (Defence of Marriage Act)
vi hiến vì xâm phạm Tu Chánh Án 5 của Hiến Pháp bảo vệ "quyền sống, quyền tự do và sở hữu tài sản
không bị tước đoạt tùy tiện".
Trước vụ kiện Obergefell thì hôn nhân đồng tính đã được
hợp thức hóa ở nhiều mức độ khác nhau tại 37 tiểu bang trên toàn nước Mỹ. Chỉ
có 14 tiểu bang là có luật cấm cấp hôn thú cho hôn nhân đồng tính. Sau vụ kiện
này thì tất cả các tiểu bang phải cung cấp hôn thú các cuộc hôn nhân đồng tính.
Đa số những người phản đối hôn
nhân đồng tính dựa trên lý do sinh lý học và tín ngưỡng. Họ viện dẫn rằng vợ chồng
cần phải sinh đẻ được để duy trì loài người. Con cái phải được sự chăm sóc của
cả cha lẫn mẹ thì mới trưởng thành một cách "trọn vẹn". Một số khác
lý luận rằng hôn nhân đồng tính đi ngược lại giáo lý tôn giáo của họ. Ngoài ra,
chấp nhận hôn nhân đồng tính có nghĩa là thay đổi bản chất của cuộc hôn nhân và
có thể dẫn đến tình trạng đa hôn (polygamy) trong tương lai.
Trong khi đó, phong trào ủng hộ
hôn nhân đồng tính lập luận rằng luật cấm hôn nhân đồng tính mang tính kỳ thị một
nhóm thiểu số trong xã hội như luật cấm hôn nhân khác chủng tộc (interracial
marriage). Trong vụ Loving v Virginia
(1967), nguyên đơn là Mildred Loving một phụ nữ da đen. Ông Richard Long một
người đàn ông da trắng. Họ kết hôn và bị tuyên án tù 1 năm vì vi phạm luật cấm
hôn nhân giữa những người da trắng và 'da màu' (colored) của tiểu bang
Virginia. Tối Cao Pháp Viện nhất trí phán quyết luật cấm đó là bất hợp pháp vì
vi phạm quyền được xét xử theo đúng trình tự pháp lý (due process) và quyền được
đối xử bình đẳng trước luật pháp (equal protection).
Về các vấn đề sinh lý học thì
nhóm ủng hộ hôn nhân đồng tính trưng dẫn bằng chứng khoa học từ các Hội Bác Sĩ
Tâm Thần, Hội Bác Sĩ Tâm Lý, Nhân Viên Xã Hội, Y tá...là các cặp hôn nhân đồng
tính cũng thương yêu chung thủy và có khả năng chăm sóc và nuôi con khoẻ mạnh
nên người như các cặp vợ chồng khác tính. Trong thời đại y học hiện nay, vấn đề
sinh sản bằng phương pháp thụ thai nhân tạo không có gì quá khó khăn. Không có
lý do gì phủ nhận các quyền lợi y tế và an sinh xã hội cho các gia đình đồng
tính chỉ vì họ là những người đồng tính. Chính vì có sự kỳ thị trong xã hội mà
có một số cá nhân và gia đình đồng tính phải chịu nhiều sức ép và trong một số
trường hợp dẫn đến hậu quả quyên sinh vì họ không được xã hội chấp nhận.
Trở lại với vụ Obergefell, phán quyết của Tòa là một
quyết định đa số với 5 vị thẩm phán đồng ý và 4 vị khác phản đối việc hợp pháp
hóa hôn nhân đồng tính. Tòa tuyên bố luật cấm hôn nhân đồng tính vi phạm Tu
Chính Án 14. Tu Chính Án 14 được thông qua vào ngày 7 tháng 7 năm 1868 và dưới
Điều khoản 1 của Tu Chính án này thì không có tiểu bang nào có quyền làm hay áp
dụng luật tước đoạt quyền sống, quyền tự do và quyền sở hữu tài sản của công
dân mà không theo đúng trình tự pháp lý hoặc phủ nhận quyền bình đẳng trước luật
pháp đối với công dân.
Thẩm Phán Kenedy nhấn mạnh quyền
kết hôn là một quyền căn bản được Hiến Pháp Hoa Kỷ bảo vệ. Đây là một sự lựa chọn
cá nhân giữa hai con người tình nguyện cam kết ràng buộc với nhau. Không có sự
kết hợp ràng buộc nào cao cả hơn hôn nhân và hôn nhân biểu tượng cho tình yêu
tuyệt đối, lòng trung thành và sự hy sinh. Khi hai người kết hôn, họ trở thành
một cặp trọn vẹn và có cuộc sống nhiều ý nghĩa hơn là hai người đơn độc. Họ chỉ
muốn được đối xử công bằng như những cặp vợ chồng khác. Hiến Pháp Hoa Kỳ bảo vệ
quyền tự do kết hôn đó của họ. Trong cốt lõi thì hôn nhân đồng tính dựa trên
khái niệm bình đẳng trước luật pháp. Gia đình và con cái của các cặp hôn nhân
này không bị kỳ thị, phân biệt đối xử trong xã hội cũng như khi tiếp cận các dịch
vụ y tế, giáo dục và an sinh xã hội. Họ có trách nhiệm đóng thuế và được miễn
thuế như các cặp vợ chồng khác.
Chánh Án Roberts đại diện cho
nhóm bất đồng. Họ cho rằng khái niệm hôn nhân là sự kết hợp giữa một người đàn
ông và một phụ nữ đã có từ thời tiền sử và áp dụng nhất quán khắp mọi nơi và
trong mọi văn hóa. Nếu có sự thay đổi để bao gồm các cặp đồng tính thì đó là
vai trò của lập pháp chớ không phải của Tòa. Khi thay mặt Quốc Hội làm luật
thay đổi định nghĩa hôn nhân có ảnh hưởng đến xã hội thì tòa đã vượt quá quyền
hạn tư pháp. Quyền kết hôn không phải là một quyền căn bản được ghi rõ trong Hiến
Pháp khi Tu Chính Án 14 được ban hành.
Sự chia rẽ của Tối Cao Pháp Viện
Hoa Kỳ cho thấy đề tài hôn nhân đồng tính sẽ còn tiếp tục gây tranh cãi. Một số
công chức Hoa Kỳ đã lên tiếng là họ sẽ không tuân thủ cấp hôn thú cho các cặp đồng
tính vì điều này trái với lương tâm và tín ngưỡng của họ. Một số ứng cử viên tổng
thống của Đảng Cộng Hòa cũng đã phát biểu lên án quyết định của Tòa. Dù sao đi
nữa thì phán quyết này mang tính lịch sử và sẽ có ảnh hưởng sâu rộng về khái niệm
hôn nhân và gia đình trên phương diện quốc tế.
Hôn nhân đồng tính cũng đang là
đề tài nóng tại Úc. Đảng Lao Động đã công khai ủng hộ việc công nhận hôn nhân đồng
tính. Khác với Hoa Kỳ, Hiến Pháp Úc không có các điều khoản về quyền tự do của
công dân nên Tối Cao Pháp Viện Úc không có nhiệm vụ áp dụng hiến pháp trong việc
bảo vệ quyền tự do và bình đẳng của các nhóm thiểu số trong xã hội. Vấn đề này
sẽ do Quốc Hội Liên Bang quyết định. Lãnh Tụ Đối Lập Bill Shorten đã trình dự
luật ủng hộ việc hợp pháp hóa hôn nhân đồng tính và kêu gọi Thủ Tướng Abbott cho
các dân biểu và nghị sĩ Tự Do được biểu quyết 'tự do' (conscience vote).
Christine Forster, em gái của Tony Abbott là một người đồng tính và đang vận động
cho hôn nhân đồng tính nhưng cho tới bây giờ thì không có dấu hiệu gì cho thấy
Thủ Tướng Abbott hoặc chính quyền Liên Đảng sẽ tạo điều kiện cho hôn nhân đồng
tính được hợp pháp hóa trong thời gian gần sắp tới.
Comments
Post a Comment