Giấy ủy quyền và giám hộ
Credit: luchetti.com.au
Ls Nguyễn Văn Thân
Trong đời sống của người cao
niên thì có 3 văn kiện pháp lý quan trọng là di chúc, giấy ủy quyền và giấy
giám hộ. Khi làm di chúc thì chúng ta đề cử người đại diện pháp lý thu thập và
phân chia tài sản theo đúng ý nguyện của mình sau khi qua đời. Di chúc chỉ có
hiệu lực khi người làm di chúc mãn phần. Trong khi đó thì giấy ủy quyền và giấy
giám hộ chỉ có giá trị pháp lý khi người làm còn sống. Giấy ủy quyền cho phép
người thụ ủy (attorney) được quyền ký kết hoặc quyết định mọi vấn đề tài chánh
(financial affairs) thay mặt cho người ủy thác (principal). Mặt khác, giấy giám
hộ (appointment of guardian) đề cử người giám hộ quyết định mọi việc liên quan tới
đời sống và sức khỏe của người đề cử. Cả hai loại văn kiện này đều mất hiệu lực
khi người ủy thác hoặc đề cử qua đời. Các văn kiện này cũng mất giá trị pháp lý
khi người làm mất khả năng nhận thức trừ khi họ làm giấy ủy quyền dài hạn
(enduring power of attorney) hoặc giấy giám hộ dài hạn (enduring appointment of
guardian).
Theo các con số thống kê thì
dân Úc ngày càng lão hóa và có nhu cầu sử dụng giấy ủy quyền và giám hộ dài hạn.
Tuổi trung bình của người Úc tăng từ 32.7 trong năm 1992 tới 37.4 trong năm
2012. Cũng trong khoảng thời gian này thì số người ở tuổi 65 tăng từ 11.5% tới
14.2% dân số. Chỉ trong 12 tháng từ 30/6/2011 tới 30/6/2012 thì số người ở tuổi
trên 65 tăng hơn 134,700 người lên tới 3,250,000 người. Con số này được phỏng
đoán là sẽ tăng gấp đôi tới 6,500,000 người trong năm 2042 và tương đương với một
phần tư dân số. Xu hướng không sinh đẻ nhiều con và con cái không sống chung với
cha mẹ trong tuổi già vẫn tiếp tục. Những người lớn tuổi, nhất là từ 80 trở lên
có nhiều nguy cơ bị lẫn, mất trí nhớ hoặc tai biến mạch máu não. Nhìn từ góc cạnh nào thì cũng không thể chối
cãi được là tỷ lệ người cao niên ngày càng gia tăng và đòi hỏi sự hỗ trợ về mặt
quản lý tài chánh và đời sống sức khoẻ. Cộng đồng người Việt cũng không ngoại lệ.
Giấy
ủy quyền
Giấy ủy quyền là một văn kiện
khá đơn giản được ký bởi người ủy thác cho phép người thụ ủy quản lý và điều
hành tài sản hoặc có những quyết định tài chính thay mặt cho ngưởi ủy thác. Khi
ký giấy ủy quyền thì người ủy thác phải còn khả năng nhận thức. Người ký phải
hiểu được ý nghĩa pháp lý của giấy ủy quyền. Nếu không chắc chắn là có khả năng
nhận thức hay không thì cần phải có chứng chỉ của bác sĩ. Giấy ủy quyền có thể
giới hạn ví dụ như chỉ chỉ thị thi hành một công tác nào đó hoặc chỉ có hiệu lực
trong lúc người ký vắng mặt ở nước ngoài hoặc trong một khoảng thời gian cố định.
Giấy ủy quyền không có giới hạn cho phép người thụ ủy ký kết và làm tất cả chuyện
gì người ủy thác có thể làm được. Nếu đụng chạm tới bất động sản ví dụ như mua
bán hoặc thuê mướn thì cần phải đăng ký giấy ủy quyền với Sở Nhà đất. Đối với những
người lớn tuổi mang bệnh đi lại khó khăn, họ có thể ký giấy ủy quyền cho phép
người thân thay mặt liên lạc với Centrelink, rút tiền ở ngân hàng, trả bill điện,
điện thoại và làm tất cả mọi việc liên quan tới tài chánh.
Người ủy thác có thể hủy bỏ giấy
ủy quyền bất cứ lúc nào ngoại trừ trong một vài trường hợp đặc biệt khi họ ký
giấy ủy quyền không thể thu hồi (irrevocable) cho phép ngân hàng hoặc chủ đất
được quyền thay thế ký giấy bán hoặc sang nhượng tài sản khi người vay hoặc
thuê vi phạm hợp đồng. Trong trường hợp này thì người thụ ủy có thể hành động
ngược lại với quyền lợi hoặc chỉ thị của người ủy thác.
Tổng quát mà nói thì người thụ
ủy có trách nhiệm thi hành đúng chỉ thị và hành xử vì quyền lợi tối ưu cho người
ủy thác. Người thụ ủy không được quyền sử dụng giấy ủy quyền để hưởng lợi riêng
trừ khi giấy ủy quyền cho phép. Không được dùng giấy ủy quyền để làm hoặc ký di
chúc. Nếu muốn, người ủy thác có thể cho phép người thụ ủy được quyền tặng quà
hoặc tiền cho các quỹ từ thiện trong một mức độ hợp lý so với tài sản của người ủy thác.
Người ủy thác có thể cho phép
người thụ ủy được quyền chi trả những phí tổn căn bản trong tiến trình thi hành
công tác thụ ủy. Nhưng nếu người thụ ủy tự trả cho mình quá nhiều thì có thể vi
luật. Trong vụ Re R (2000), người thụ
ủy quyết định cho chính họ mượn 4 triệu đồng không lãi, viện dẫn lý do là họ chỉ
tiếp tục kế hoạch giảm thiểu thuế cho người ủy thác. Nhưng Thẩm phán Young của
Tòa Thượng thẩm NSW đã phán quyết là hành vi này đi ngược lại quyền lợi tối ưu
của người ủy thác. Trong vụ Moylan v
Rickards (2010), mấy đứa con của người ủy thác dùng giấy ủy quyền dài hạn
bán đi căn nhà ở của người ủy thác. Sau khi đóng tiền phí tổn cho viện dưỡng
lão, họ tự tặng cho họ số tiền còn lại viện dẫn lý do là bằng không thì người ủy
thác có thể mất tiền trợ cấp người già và trợ cấp phí tổn thuốc men. Lý lẻ này
không được tòa chấp thuận vì họ không bao giờ liên lạc hoặc đặt câu hỏi với
Centrelink về tiền trợ cấp.
Người thụ ủy phải làm đúng chỉ
thị và không được vượt quá quyền hạn cho phép. Trong vụ Watson v Watson (2002), người thụ ủy tự bán căn nhà ở cho chính
mình. Việc này đi ngược lại ý nguyện của người ủy thác là tất cả con cái được
quyền tiếp tục ở trong căn nhà và sau khi bán thì phải chia đồng đều cho mấy đứa
con của họ.
Theo thông luật thì giấy ủy
quyền đương nhiên hết hiệu lực khi người ủy thác mất khả năng nhận thức. Đạo luật
Ủy quyền (Power of Attorney Act) cho phép người ủy thác ký giấy ủy quyền có hiệu
lực ngay cả khi họ mất khả năng nhận thức nếu hội đủ 3 điều kiện. Thứ nhất là
giấy ủy quyền ghi rõ là nó sẽ vẫn còn hiệu lực sau khi người ủy thác mất khả
năng nhận thức. Thứ hai là giấy ủy quyền phải được chứng nhận bởi một nhân chứng
có thẩm quyền gồm có luật sư, trạng sư, nhân viên chuyển nhượng có đăng ký môn
bài (licenced conveyancer), dự thẩm tòa án địa phương hoặc nhân viên của NSW
Trustee & Guardian. Thứ ba là nhân chứng nêu trên phải ký một chứng chỉ xác
nhận là họ đã giải thích ý nghĩa của giấy ủy quyền dài hạn cho người ủy thác và
người ủy thác hiểu được văn kiện này trước khi quyết định ký.
Tòa Tài phán Giám hộ
(Guardianship Tribunal) và Tòa Thượng Thẩm có thể duyệt xét mọi giấy ủy quyền
dài hạn và nếu cần sẽ ra án lệnh truất phế người thụ ủy, đề cử người thụ ủy mới
hoặc yêu cầu người thụ ủy cung cấp chi tiết hoặc kế hoạch quản lý tài chính.
Ngoài ra trong trường hợp có người thình lình mất khả năng nhận thức ví dụ như
vì vừa trải qua một cơn tai biến mạch máu não thì tòa cũng có thể ra án lệnh
cho phép người thân hoặc NSW Trustee & Guardian (một cơ quan thụ thác của
chính quyền) đứng ra quản lý tài sản cho người ủy thác.
Giấy
giám hộ
Bất cứ ai cũng có thể ký giấy
giám hộ đề cử người đại diện quyết định mọi vấn đề về đời sống và sức khỏe cho
mình sau khi mất khả năng nhận thức. Tương tự như giấy ủy quyền, giấy đề cử
giám hộ dài hạn sẽ vẫn còn hiệu lực ngay cả khi người trao quyền giám hộ mất khả
năng nhận thức ví dụ như vì bị lẫn hoặc mất trí nhớ hoặc bị chấn thương sọ não.
Giấy đề cử giám hộ chỉ có hiệu lực khi người ký mất khả năng về cơ thể hoặc tri
thức và không tự lo được cho đời sống và sức khoẻ của họ. Bác sĩ chuyên môn về
thần kinh tâm lý sẽ quyết định khi nào người đề cử mất khả năng nhận thức.
Người giám hộ có quyền đồng
thuận chữa bệnh hoặc chữa răng để bảo vệ sức khỏe cho người đề cử. Ngược lại,
người giám hộ cũng có quyền từ chối các hình thức điều trị mà họ cho là không tốt
cho người đề cử. Tuy nhiên, bác sĩ không cần có sự đồng thuận khi phải cứu mạng
bệnh nhân hoặc để giải cứu bệnh nhân
trong tình trạng nguy kịch.
Người giám hộ có quyền quyết định
chỗ ở của người đề cử gồm có quyết định có đưa vào viện dưỡng lão hay không. Có
mướn y tá hoặc người tới nhà dọn dẹp vệ sinh hoặc đi chợ giùm hay không? Hình
thức giải trí thế nào? Hình thức trị bệnh thế nào kể cả hình thức chăm sóc cuối
đời. Sinh hoạt hàng ngày ra sao kể cả nhu cầu tâm linh và văn hóa.
Người đề cử có thể đề cử một
hoặc nhiều người giám hộ, đại diện và hành xử chung (jointly) hoặc riêng
(severally) hoặc dự bị (alternate). Nếu đề cử nhiều người đại diện chung thì tất
cả phải đồng thuận với nhau. Việc này có thể tạo khó khăn nếu cần có quyết định
khẩn cấp ngay trong bệnh viện vào lúc 3 giờ sáng. Nếu riêng thì cũng có thể tạo
ra nhiều vấn đề ví dụ như người thứ nhất mới vừa có một quyết định quan trọng
thì người thứ hai lại làm hoàn toàn ngược lại. Nếu đề cử người dự bị thì họ chỉ
được quyền đại diện sau khi người giám hộ đầu tiên từ chức hoặc qua đời.
Giấy ủy quyền giám hộ sẽ bị hủy
bỏ khi người đề cử (trong lúc còn khả năng nhận thức) quyết định hủy, hoặc khi
người đề cử thành hôn, hoặc khi người giám hộ từ chức hoặc khi Tòa tài phán ra
án lệnh đình chỉ hoặc hủy bỏ giấy ủy quyền giám hộ. Tòa án cũng có quyền tái
duyệt thường xuyên xem người giám hộ có làm đúng trách nhiệm hay không. Toà có
thể truất phế và đề cử người giám hộ mới cùng với những chức năng cụ thể cho
người giám hộ mới. Thông thường thì thời hạn lúc đầu sẽ là 1 năm. Sau đó có thể
gia hạn mỗi 3 năm hoặc 5 năm.
Tóm lại, giấy ủy quyền và giấy
đề cử giám hộ cùng với di chúc là các văn kiện pháp lý quan trọng đối với người
cao tuổi. Mỗi người đều có hoàn cảnh và đời sống khác nhau. Có thể có người
không cần có tờ giấy nào hoặc chỉ một hoặc cả 3 văn kiện. Điều quan trọng là chỉ
có thể ký các văn kiện này khi còn khả năng nhận thức. Một khi mất khả năng nhận
thức (ví dụ như qua một cơn tai biến mạch máu não) thì không làm được nữa. Muốn
có người giám hộ thì phải đưa sự việc ra tòa để xin án lệnh đề cử. Nếu không có
sự đồng thuận của tất cả con cái hoặc thân nhân trong gia đình thì có thể dẫn đến
tranh tụng với nhiều tốn kém và xung đột không cần thiết.
Comments
Post a Comment