Người Việt tại Úc với quốc tịch Việt nam


Credit: nhandan.com.vn 

Ls Nguyễn Văn Thân


Theo truyền thống thì Luật Quốc tịch Việt Nam dựa trên nguyên tắc đơn tịch hay là một quốc tịch. Sau năm 1945 thì chính quyền Hồ Chí Minh tại miền Bắc Việt Nam đã ban hành Sắc Lệnh 53/SL quy định rằng những người Việt Nam đã vào quốc tịch Pháp sẽ được coi là công dân Việt Nam và phải đến khai bỏ quốc tịch Pháp cũng như những công dân Việt Nam đã nhập quốc tịch ngoại quốc thì sẽ mất quốc tịch Việt Nam (Điều 7).


Sau 1975 thì Đạo luật Quốc tịch hoàn chỉnh đầu tiên ra đời vào năm 1988. Điều 3 của Đạo luật này khẳng định nguyên tắc đơn tịch là “Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam chỉ công nhận công dân Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”. Nhưng Đạo luật này không ghi rõ là người nước ngoài xin và được nhập quốc tịch Việt Nam có đương nhiên mất quốc tịch gốc của họ hay không và ngược lại công dân Việt Nam nhập quốc tịch nước ngoài có đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam hay không. Tuy nhiên, công dân Việt Nam muốn nhập tịch nước ngoài có thể xin thôi quốc tịch Việt Nam nếu quốc gia đó quy định (Nghị định 37/HĐBT 1990).


Tới năm 1998 thì Luật Quốc tịch được tu chính. Điều 20 của Luật Quốc tịch 1998 quy định rằng người nước ngoài được nhập quốc tịch Việt Nam thì không còn giữ quốc tịch nước ngoài, trừ trường hợp đặc biệt do Chủ tịch nước quyết định (Điều 20.3). Thật ra, điều khoản này chỉ áp dụng với Việt Nam còn việc người đó có mất quốc tịch nước ngoài hay không là do luật của quốc gia đó. Điều khoản này một lần nữa đặt luật quốc tịch Việt Nam trong khuôn khổ đơn tịch. Và nếu như áp dụng nguyên tắc đơn tịch triệt để thì người Việt ra định cư và nhập tịch nước ngoài phải đương nhiên mất quốc tịch Việt Nam. Một số nhà bình luận cho rằng nhà cầm quyền CSVN trong thời gian đầu khăng khăng cho rằng người Việt định cư và có quốc tịch nước ngoài vẫn là người Việt Nam là vì nếu cần có thể bắt bớ, giam cầm hay truy tố họ như một người Việt Nam và chối bỏ quyền công dân nước ngoài gồm có quyền được lãnh sự quán nước ngoài hỗ trợ khi họ bị truy bắt hoặc giam cầm (Trần Bình Nam - Luật Quốc Tịch Việt Nam).


Tới năm 2008 thì Luật Quốc tịch lại được tu chính. Đặc biệt là Điều 4 trước đây quy định“Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam có một quốc tịch là quốc tịch Việt Nam”được bổ sung “trừ trường hợp Luật này có quy định khác”. Tu chính này có thể được diễn giải là truyền thống đơn tịch không còn áp dụng triệt để như trước đây. Nếu như Luật Quốc tịch 1998 có ghi là “nguyên tắc một quốc tịch” thì Luật năm 2008 đã bỏ bớt chữ “một” và chỉ còn là “nguyên tắc quốc tịch”. Điều này cho thấy có sự mềm dẻo và linh hoạt hơn. Lý do chính có sự thay đổi này là vì nhà cầm quyền muốn thu hút người Việt định cư và có quốc tịch nước ngoài trở về đầu tư và làm ăn ở Việt Nam bằng cách tạo điều kiện cho họ hồi phục quốc tịch Việt Nam mà vẫn giữ được quốc tịch nước ngoài.

 

Nếu xin lại quốc tịch Việt Nam thì có mất quốc tịch Úc không? Câu trả lời là “Không”. Úc Đại lợi cũng có truyền thống đơn tịch bắt đầu với Đạo luật Quốc tịch đầu tiên từ năm 1903 (Naturalization Act 1903). Luật Quốc tịch Úc đã trải qua nhiều đợt tu chính nhưng đến năm 2002 thì Đạo luật Tu chính Quốc tịch Úc (Australian Citizenship Legislation Amendment Act 2002) gạch bỏ Điều 17 của Luật Quốc tịch. Điều 17 này quy định công dân Úc đương nhiên mất quốc tịch Úc khi nhập quốc tịch của một quốc gia khác. Có nghĩa là kể từ năm 2002 thì Luật Quốc tịch Úc công nhận tình trạng song tịch hoặc đa tịch.

 

Theo luật Quốc Tịch mới của Việt Nam thì sau ngày 1/7/2014 những "Việt Kiều" không đăng ký giữ lại quốc tịch Việt Nam thì không còn là công dân Việt Nam nữa. Điều 13.2 của Luật Quốc tịch 2008 ghi rõ là “Người Việt Nam định cư ở nước ngoài mà chưa mất quốc tịch Việt Nam theo quy định của pháp luật Việt Nam trước ngày Luật này có hiệu lực thì vẫn có quốc tịch Việt Nam và trong thời hạn 5 năm, kể từ ngày Luật này có hiệu lực, phải đăng ký với cơ quan đại diện Việt Nam ở nước ngoài để giữ quốc tịch Việt Nam”.

 

Ngoài ra, Điều 26.3 khẳng định một trong những căn cứ mất quốc tịch Việt Nam là“Không đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam quy định tại khoản 2 Điều 13 của Luật này”.

 

Người mất quốc tịch Việt Nam vì không tiến hành thủ tục đăng ký vẫn có thể làm đơn xin trở lại quốc tịch Việt Nam dưới những Điều 23, 24 và 25 của Luật Quốc tịch 2008. Tuy nhiên, người được trở lại quốc tịch Việt Nam thì phải thôi quốc tịch nước ngoài, trừ một số trường hợp và trong trường hợp đặc biệt, “nếu được Chủ tịch nước cho phép”(Điều 23.5).

 

Nếu muốn xin giữ quốc tịch Việt Nam thì phải liên lạc với Tòa Đại sứ hoặc Lãnh Sự quán Việt Nam để tiến hành thủ tục đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam trước ngày 1 tháng 7 năm 2014.

 

Nếu xin lại quốc tịch Việt Nam mà chính quyền Việt Nam buộc phải tuyên thệ từ bỏ quốc tịch cũ thì không hẵn sẽ mất quốc tịch Úc vì việc đó tùy thuộc vào luật pháp Úc chớ không phải luật pháp hoặc điều kiện nhập tịch của Việt Nam. Một công dân Úc đương nhiên mất quốc tịch Úc nếu tuyên thệ nhập tịch với một quốc gia khác trước ngày 4 tháng 4 năm 2002. Sau ngày này thì phải làm đơn xin thôi quốc tịch Úc. Điều 33(1) của Đạo luật Quốc tịch Úc 2007 (Australian Citizenship Act 2007) ghi rõ là người muốn thôi quốc tịch Úc phải gửi đơn đến Tổng trưởng Di trú để duyệt xét. Tổng trưởng phải trả lời đơn bằng văn bản chấp thuận hoặc từ chối và nguyên đơn chỉ mất quốc tịch Úc tính từ ngày có quyết định chấp thuận.

 

Có lại quốc tịch Việt Nam thì có hai lợi điểm chính là có thể đi lại dễ dàng giữa Úc và Việt Nam mà không cần xin visa. Thứ hai là có thể mua bán, làm ăn, thành lập công ty, đứng tên thương vụ hoặc bất động sản tại Việt Nam mà không cần thông qua các thủ tục xin phép dành cho người nước ngoài.

 

Dĩ nhiên thì bên cạnh đó cũng có nhiều điều bất lợi. Thứ nhất là có thể phải thi hành nghĩa vụ quân sự như các công dân Việt Nam khác. Kế tiếp là có thể phải khai và đóng thuế cho cả Úc và Việt Nam.

 

Nhưng điều nguy hiểm nhất là khi đụng chạm tới luật hình sự hoặc khi cần sự hỗ trợ của lãnh sự quán Úc ví dụ như trong trường hợp của ông Ernst Harlacher, một người sinh ra tại Thuỵ Sĩ nhưng đã di dân sống tại Melbourne trên 40 năm. Ông Ernst đi Thụy Sĩ để thăm bạn trong năm 2012 nhưng bị cảnh sát bắt vì được chẩn đoán mang bệnh lẫn (dementia). Theo luật Thụy Sĩ thì những người mang bệnh lẫn bị buộc phải giam giữ trong bệnh viện. Lãnh sự Úc tại Thụy Sĩ không can thiệp được vì ông vẫn còn giữ quốc tịch Thụy Sĩ. Ông qua đời trong bệnh viện một năm sau đó.

 

Một trường hợp khác là Ben Zygier - một người có song tịch Úc-Do Thái. Ben Zygier sinh ngày 9 tháng 12 năm 1976 tại Melbourne. Sau khi học xong đại học thì Ben gia nhập quân đội Do Thái và thi hành nghĩa vụ quân sự. Sau đó Ben làm việc cho tổ chức tình báo Mossad của Do Thái.

 

Không biết vì lý do gì mà Ben bị nhà nước Do Thái bắt giam và giữ trong một phòng giam bí mật vào năm 2010. Gia đình của Ben cũng như lãnh sự quán Úc hoàn toàn không được cho biết bất cứ chi tiết gì. Mãi đến năm 2013 sau khi Ben tự tử trong tù thì vụ này mới được đưa ra ánh sáng.

 

Những trường hợp gần với Việt Nam nhất là những người Úc gốc Hoa khi về Trung Quốc làm ăn bị bắt và tuyên án tù dài hạn. Nổi bật nhất là Stern Hu một giám đốc của đại công ty Rio Tinto. Nhà cầm quyền cộng sản Trung Quốc không coi họ như là người Úc và Lãnh sự cũng như Bộ Ngoại giao Úc cũng không làm gì được. Trong khi những người Úc gốc Hoa đều nhận những bản án tù dài hạn nhiều năm thì một người Úc da trắng là ông Chris Mather chỉ bị lưu giữ 6 tháng với những cáo buộc tương tự.

 

Riêng đối với người Úc gốc Việt thì càng phải thận trọng hơn vì theo Điều 78 của Bộ Luật Hình sự Việt Nam (đã được sửa đổi, bổ sung 2009) thì “công dân Việt Nam nào cấu kết với nước ngoài nhằm gây nguy hại cho độc lập, chủ quyền..., chế độ xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thì bị phạt tù từ 12 năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình”. Tương tự như vậy, Điều 79 quy định người nào tham gia tổ chức nhằm lật đổ“chính quyền nhân dân” thì bị phạt tù từ mười hai năm đến hai mươi năm, tù chung thân hoặc tử hình. Điều 88 quy định người nào “tuyên truyền xuyên tạc, phỉ báng chính quyền nhân dân thì bị phạt tù từ ba năm đến mười hai năm và trường hợp nghiêm trọng thì từ mười năm đến hai mươi năm”.

 

Trong thời gian gần đây thì nhà cầm quyền lại đưa ra Điều luật 258 để buộc tội và bỏ tù những bloggers và những người sử dụng facebook và internet. Điều 258 quy định người nào “lợi dụng các quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, tự do tín ngưỡng, tôn giáo, tự do hội họp, lập hội và các quyền tự do dân chủ khác xâm phạm lợi ích của Nhà nước... tổ chức, công dân thì bị phạt cảnh cáo, cải tạo không giam giữ đến ba năm hoặc phạt tù từ sáu tháng đến ba năm. Trường hợp nghiêm trọng thì phạt tù từ hai năm đến bảy năm”.

 

Thế nào là “lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của Nhà nước”? Luật Việt Nam có đặc điểm là lúc nào cũng rất mơ hồ dễ tạo điều kiện cho sự diễn giải tùy tiện và những bản án bỏ túi. Một công dân Úc giữ quốc tịch Việt Nam khi nói chuyện với bạn bè trong một quán cà phê ở Cabramatta hay Footscray lên án nhà cầm quyền Việt Nam hèn nhát trước sức ép của Trung Quốc thì có “lợi dụng quyền tự do ngôn luận xâm phạm lợi ích của Nhà nước” hay không? Còn nếu bày tỏ thái độ như vậy qua email hoặc trên facebook thì sao? Khi về Việt Nam có thể bị bắt và truy tố hay không? Hoặc khi về Việt Nam làm ăn nhưng bị công an bắt bỏ tù thì có được Lãnh sự quán Úc ân cần thăm hỏi, hỗ trợ và vận động tích cực để được trả tự do hay không? Nếu nhà cầm quyền Việt Nam trả lời là họ đang giam giữ và xét xử công dân của họ theo đúng luật pháp và yêu cầu Lãnh sự Úc đừng xía vào thì Úc có làm được gì không? Mọi người nên suy nghĩ thật kỹ trước khi có ý định đăng ký giữ quốc tịch Việt Nam.

 


Comments

Popular posts from this blog

PHÁP LUẬT PHỔ THÔNG - LS NGUYỄN VĂN THÂN

Từ Thuộc địa tới Liên Bang Úc

Luật phỉ báng