Dự luật cấm khăn che mặt có bị vi hiến hay không?
Credit: thenewdaily.com
Ls Nguyễn Văn Thân
Vào tháng 2 năm 2017, dư luận xôn xao về đề nghị cấm những người đeo khăn che mặt thăm viếng Quốc Hội Úc. Dự luật này được đưa ra bởi bà Jacqui Lambert một Thượng Nghị Sĩ của Đảng Palmer United Party. Đề nghị của bà Lambert được một số chính trị gia của Liên Đảng ví dụ như các ông Cori Barnadi và George Christensen ủng hộ mạnh mẽ. Trong lúc mọi người còn đang phân vân không biết dự luật này sẽ đi về đâu thì Chủ tịch Quốc hội là bà Bronwyn Bishop và Thượng Nghị sĩ Stephen Parry ra quyết định những người nào che mặt thì phải ngồi riêng trong một phòng kiếng chớ không được ngồi chung với công chúng vào thăm Quốc Hội (public gallery). Phòng kiếng này là nơi dành cho các trẻ em ngồi để tránh tình trạng mấy đứa bé cứ đi lung tung trong Quốc Hội. Lý do được đưa ra là vì vấn đề an ninh, nếu cần phải đuổi người nào ra khỏi Quốc Hội thì nhân viên an ninh có thể nhận dạng người đó mau chóng và dễ dàng. Nhưng Thủ Tướng Tony Abbott đã yêu cầu xét lại quyết định này sau khi nhận được sự phản đối từ nhiều dân biểu và nghị sĩ Đảng Tự Do khác.
Tưởng cũng nên nhắc lại là
cách đây vài hôm, Thủ Tướng Abbott đã phát biểu là hình ảnh những người phụ nữ
Hồi Giáo che trùm kín mặt tạo cho ông một cảm giác khó chịu (confronting). Bà Lambert
thì cho rằng khăn che mặt là một hình thức đàn áp phụ nữ của Đạo Hồi. Dĩ nhiên
là ai cũng biết, mục tiêu của những đề nghị cấm khăn che mặt là nhắm vào một nhóm
thiểu số phụ nữ Hồi Giáo mặc đồ che kín mít từ trên xuống dưới. Đề nghị này được
đưa ra vào đúng một thời điểm tế nhị khi Úc đang chuẩn bị tham chiến chống Nhà
Nước Hồi Giáo cũng như mới vừa bố ráp một số nơi để lùng bắt tội phạm khủng bố
ngay trong nước.
Vấn đề là nếu dựa vào lý do an
ninh thì bất cứ người nào muốn vào Quốc Hội cũng phải đi qua hệ thống kiểm tra
an ninh gắt gao. Và nếu vì an ninh thì tại sao lại cho những người che mặt ngồi
chung với trẻ con? Không sợ họ bắt các em làm con tin sao? Từ trước tới giờ
chưa có một phụ nữ Hồi Giáo nào mang khăn che mặt muốn vào Quốc Hội cả. Và nếu
như có thì chắc chắn nhân viên an ninh đã phải kiểm tra họ rất chặt chẽ. Cũng rất
có thể nhân viên an ninh sẽ yêu cầu họ tháo gỡ khăn che mặt vì lý do an ninh mà
không cần thêm bất cứ một luật lệ nào khác. Hình ảnh một số phụ nữ ngồi trong
lòng kín cùng với đám trẻ con để xem các chính trị gia thảo luận về chính sách
liên quan tới sắc phục của họ sẽ tạo nên một hình ảnh của Quốc Hội Úc, nước Úc
và người Úc thế nào?
Trở lại với dự luật cấm mang
khăn che mặt của bà Lambert thì một số luật gia gồm có Giáo Sư George William
đã lên tiếng cho rằng dự luật này có thể vi phạm Hiến Pháp Úc và cụ thể là Điều
116 của Hiến Pháp ngăn cấm Quốc Hội Úc làm luật giới hạn quyền tự do tôn giáo.
Vậy Điều 116 cụ thể gồm có những gì và dự luật này có bị vi hiến hay không?
Trước khi trả lời câu hỏi này
thì chúng ta hãy tìm hiểu kinh nghiệm từ Châu Âu và đặc biệt là tại Pháp. Vào
năm 1989, 3 nữ sinh Pháp gốc Hồi Giáo bị đuổi học vì không chịu tháo bỏ khăn
che đầu. Từ năm 1994 tới 2003 thì có khoảng 100 nữ sinh Hồi Giáo bị đuổi học vì
vấn đề này. Một số phụ huynh tiến hành kiện nhà trường dẫn đến quyết định đình
công của một số thầy cô giáo. Tới năm 2004 thì chính quyền Pháp ban hành luật
ngăn cấm học sinh mặc những gì có biểu tượng tôn giáo trong trường học. Đạo luật
ghi rõ mục đích là ngăn cấm tất cả mọi biểu tượng tôn giáo chớ không có tính kỳ
thị hoặc chỉ nhắm vào Hồi Giáo để bảo vệ và cổ xúy cho một nhà nước và hệ thống
công quyền thế tục. Pháp, cũng như nhiều quốc gia Âu Châu khác có một chiều dài
lịch sử phức tạp giữa thế quyền và giáo quyền. Cuộc Cách Mạng Pháp bắt đầu vào
năm 1789 lật đổ chế độ quân chủ chuyên chế và cắt đứt ảnh hưởng của Giáo Hội
Công Giáo tại Pháp. Quan hệ giữa Nhà Nước và Giáo Hội chính thức bị tách rời
vào năm 1905.
Tòa Án Nhân Quyền Châu Âu đã
phán là Đạo Luật ngăn cấm mặt mặt biểu tượng tôn giáo của Pháp không vi phạm Hiệp
Ước Bảo Vệ Nhân Quyền của Khối Liên Âu.
Tòa này cũng xét xử một số vụ
kiện khác liên quan tới sắc phục Hồi Giáo gồm có vụ Dahlab v Switzerland (2001).
Vụ này liên quan tới một giáo viên tiểu học Đạo Hồi mang khăn che đầu. Tòa phán
luật này của Thụy Sĩ giới hạn quyền tự do tôn giáo của giáo viên nhưng có thể
chấp nhận được vì chính sách của Thụy Sĩ là bảo đảm sự trung dung về tôn giáo tại
các trường công cộng.
Một vụ khác là Sahin v Turkey (2005). Sahin là một nữ
sinh viên y khoa. Cô bị từ chối không cho vào trường đại học vì không chịu tháo
bỏ khăn che đầu. Tòa cũng phán là chính quyền Thổ Nhĩ Kỳ có quyền bảo vệ chính
sách nhà nước thế tục của họ, tách rời tôn giáo ra khỏi hệ thống công quyền gồm
có các cơ sở giáo dục.
Trong vụ kiện The Queen on the Application of
Watkins-Singh and the Governing Body of Aberdare Girls’ High School and Rhondda
Cynon Taf Unitary Authority (2008), một nữ sinh người Sikh khiếu nại với
tòa là cô không được đeo một vòng sắt gọi là Kara. Đối với người Sikh, việc này
vô cùng quan trọng vì nó nhắc nhở họ lệ thuộc vào Thượng Đế. Trường học cãi rằng
nội quy của trường là cấm tất cả mọi học sinh không được đeo nữ trang, và nếu tạo
ngoại lệ trong trường hợp này thì không công bằng cho những học sinh khác.
Nhưng tòa phán rằng nhà trường đã kỳ thị nữ sinh này trên căn bản tôn giáo. Nội
quy của trường là cấm đeo nữ trang chớ không phải cấm biểu tượng tôn giáo. Với
nữ trang thì học sinh có thể chọn đeo hoặc không đeo nó với mục đích là dùng nó
làm trang sức hoặc để làm đẹp. Còn với biểu tượng tôn giáo thì tín đồ không có
sự lựa chọn như vậy.
Một vụ kiện liên quan tới tự
do tôn giáo được Tòa Thượng Thẩm Hoa Kỳ cứu xét là Goldberg v Weinberger, the Secretary of Defense (1986). Chính sách
của Bộ Quốc Phòng Hoa Kỳ là cấm nhân viên không được đội nón hoặc bất cứ thứ gì
trên đầu khi làm việc trong phòng. Goldberg là một nhân viên không quân Hoa Kỳ
và cũng là một giáo sĩ Do Thái (ordained rabbi). Ông đội một cái mũ nhỏ
(skullcap) khi làm việc trong phòng và đội cái mũ làm việc trên cái mũ nhỏ khi
làm việc bên ngoài. Cấp trên dọa sẽ đưa ông ra tòa án quân sự nếu không tháo bỏ
cái mũ nhỏ. Ông cãi lại và cho rằng điều lệ này vi phạm quyền tự do tôn giáo được
hiến Pháp Hoa Kỷ bảo đảm.
Tòa Thượng Thẩm Hoa Kỳ (theo
đa số thẩm phán) phán quyết là điều lệ của Bộ Quốc Phòng không có vi hiến vì
quân đội cần phải có kỷ luật, thống nhất và duy trì tinh thần huynh đệ chi
binh. Không thể có nhiều trường hợp ngoại lệ cho những tôn giáo khác nhau. Tương
tự như vậy, trong vụ Webb v City of Philadelphia (2007), tòa chấp thuận chính sách của cảnh sát ngăn cấm nhân
viên mang khăn che đầu tại nơi làm việc để tạo môi trường thân thiện và hợp tác
giữa những nhân viên cảnh sát trong lúc thi hành nhiệm vụ.
Tới năm 2011 thì Pháp lại ban
hành luật cấm mọi người mang khăn hoặc đeo mặt nạ che mặt nơi công cộng. Mục
đích của luật này là để bảo vệ an ninh nơi công cộng và cổ xúy cho một xã hội
hài hòa (living together). Bỉ làm theo và trong tháng 12 năm 2012 và Tòa Án Hiến
Pháp Bỉ đã phán rằng luật cấm che mặt nơi công cộng không vi phạm Hiến Pháp Bỉ.
Một số quốc gia Âu Châu khác gồm có Hòa Lan và Tây Ban Nha cũng đang cứu xét ban
hành những đạo luật tương tự. Vào ngày 1 tháng 7 năm 2014, Tòa Án Nhân Quyền Âu
Châu đã ban hành phán quyết luật cấm mang hoặc đeo khăn che mặt hoặc mặt nạ của
Pháp tại nơi công cộng không vi phạm Hiệp Ước Nhân Quyền mà Pháp đã ký dựa trên
căn bản chính sách cổ xúy cho một xã hội hài hòa là một mục đích chính đáng.
Tóm lại, theo những nguyên tắc
pháp lý từ Tòa Án Nhân Quyền Châu Âu và Tòa Thượng Thẩm Hoa Kỳ thì tự do tôn
giáo không có giá trị tuyệt đối. Chính quyền có thể ban hành luật giới hạn quyền
tự do tôn giáo để thi hành các chính sách chính đáng ví dụ như để bảo vệ hoặc cổ
xúy cho một nhà nước thế tục, an ninh công cộng, kỷ luật quân đội hoặc một xã hội
hài hòa mà trong đó, người di dân từ khắp mọi nơi trên thế giới chung sống và
làm việc với nhau vui vẻ và hài hòa. Một tiêu chuẩn quan trọng khác là biện
pháp ngăn cấm có mức độ tương xứng với mục đích và hậu quả của nó.
Trở lại với tình trạng tại Úc
thì quyền tự do tôn giáo được ghi nhận trong Hiến Pháp Úc và trong các đạo luật
chống kỳ thị. Tuy nhiên, chính quyền hoặc quốc hội có thể tu chính các đạo luật
chống kỳ thị bất cứ lúc nào nếu cần thiết khi ban hành luật cấm đeo khăn che mặt.
Câu hỏi được đặt ra là chính quyền liên bang Úc hoặc các tiểu bang có nên ban
hành luật cấm đeo khăn che mặt hoặc mang mặt nạ tại nơi công cộng như Pháp và Bỉ
đã làm hay không? Và nếu làm vậy thì có vi phạm Điều 116 của Hiến Pháp Úc hay
không?
Úc là một nước đa văn hóa với
nhiều nhóm cộng đồng sắc tộc khác nhau đến từ mọi nơi trên thế giới. Ngoài lý
do an ninh, việc cổ xúy cho một xã hội hài hoà và khuyến khích các cộng đồng sắc
tộc hội nhập thành công rõ ràng là một mục đích chính đáng. Mặt khác, một xã hội
văn minh sẵn sàng tôn trọng quyền tự do ăn mặt hoặc biểu lộ niềm tin qua sắc phục
của tất cả mọi người. Nhưng nếu có người muốn di dân tới Úc nhưng không muốn hội
nhập vào xã hội thì họ có nên được quyền làm vậy hay không? Khi tuyên thệ nhập
quốc tịch Úc thì mọi người di dân cam kết trung thành với nước Úc, chia sẻ những
giá trị dân chủ, tự do, nhân quyền của Úc. Nhưng nếu bịt mặt tại nơi công cộng
thì làm sao họ có thể đối thoại, trao đổi và chia sẻ những giá này với người
khác?
Điều 116 của Hiến Pháp Úc quy
định “Quốc Hội Liên Bang Úc không được
quyền ban luật thành lập bất cứ một tôn giáo nào, hoặc bắt buộc thi hành nghi
thức tôn giáo, hoặc ngăn cấm quyền thi hành tự do tôn giáo và không được đặt tiêu
chuẩn tôn giáo trong các chức vụ công quyền”.
Điều 116 chỉ áp dụng cho Quốc
Hội liên bang chớ không ràng buộc Quốc Hội của các tiểu bang. Có rất ít vụ kiện
liên quan tới Điều khoản này và chưa có đạo luật nào bị coi là vi hiến vì đi
ngược lại Điều 116. Trong vụ kiện Adelaide
Company of Jehovah’s Witnesses Incorporated v Commonwealth (1943), nguyên
đơn là tín đồ Jehovah’s Witness và tin rằng Đế Quốc Anh (gồm có Úc) là một bộ
phận của Quỷ Satan. Họ tù chối tuyên thệ tuân thủ luật pháp ban hành bởi Quốc Hội
Úc. Họ cãi rằng Điều 116 bảo đảm quyền tự do tôn giáo cho dù tín ngưỡng của họ
có đi ngược lại luật pháp hiện hành. Tối Cao Pháp Viện Úc xác định quyền tự do
tôn giáo không có giá trị tuyệt đối và phải chịu quân bằng bởi những luật lệ
khác. Trong một vụ kiện gần đây hơn là Kruger
v Commonwealth (1997), nguyên đơn là một nhóm người Thổ dân thuộc thế hệ bị
đánh cắp (stolen generation). Họ muốn tòa tuyên bố là Đạo luật của Quốc Hội Bắc
Úc cho phép chính quyền bắt con của Thổ dân là vi hiến trọng đó có sự vi phạm đối
với Điều 116 bảo đảm cho tự do tôn giáo. Nhưng Tối Cao Pháp Viện Úc phán rằng để
vi phạm Điều 116 thì đạo luật đó phải có mục đích ngăn cấm tôn giáo. Nói một cách
khác, luật không có mục đích nhưng có hậu quả ngăn cấm hoặc giới hạn tự do tôn
giáo có thể sẽ không vi phạm Điều 116.
Một đạo luật ngăn cấm mọi hình
thức bịt mặt nơi công cộng một cách tổng quát thì không thể nói là ngăn cấm tín
đồ Hồi Giáo thực thi quyền tự do tôn giáo. Nó chỉ ảnh hưởng đến một nhóm thiểu
số phụ nữ Hồi Giáo mà thôi vì đa số phụ nữ Hồi Giáo có thể mang khăn che đầu
nhưng không mang khăn che mặt. Nói vậy không có nghĩa là quyền lợi của thiểu số
không cần được tôn trọng nhưng hậu quả của nó không quá bất tương xứng với mục
đích chính đáng là bảo vệ và cổ xúy cho một xã hội đa văn hóa hài hòa và đẩy mạnh
tiến trình hội nhập thành công đối với những công dân Úc mới.
Tóm lại, chúng ta đang sống
trong một thời điểm bất thường với mối đe dọa khủng bố có thể xảy ra tại đâu và
bất cứ lúc nào. Mục đích của chủ nghĩa Hồi Giáo cực đoan là tạo sự nghi kỵ và
chia rẽ giữa những thành viên trong một xã hội đa văn hóa. Về điểm này thì nó
không khác gì chính sách đấu tố của chủ nghĩa cộng sản. Trách nhiệm của tất cả
mọi người là bình tĩnh đối thoại và tranh luận một cách đúng đắn như Thượng Nghị
Sĩ David Leyonhjelm của Đảng Tự Do Dân Chủ đã từng phát biểu: “chúng ta đang chống lại chủ nghĩa man rợ,
nhưng không có nghĩa là mình cũng phải trở thành man rợ”.
Comments
Post a Comment