Việt nam có thể học được gì từ Đông Timor?
Credit: thediplomat.com
Ls Nguyễn Văn Thân
Vào ngày 11/4/2016, Đông Timor đã nộp đơn khởi kiện Úc với Tòa Trọng Tài Thường Trực tại The Hague (PCA) theo thủ tục Hòa Giải (Conciliation) dưới Phụ Lục V của Công Ước Liên Hiệp Quốc về Luật Biển (UNCLOS). Mục đích của đơn kiện là yêu cầu Úc tiến hành thương lượng phân định lãnh hải giữa Đông Timor và Úc.
Đây là vụ kiện thứ tư của Đông Timor. Vụ kiện đầu tiên diễn ra vào ngày 24/3/2013 khi Đông Timor nộp đơn với PCA yêu cầu Tòa Trọng tài tuyên phán là Hiệp Ước Thỏa Thuận Hàng Hải trong Biển Timor (Certain Maritime Arrangements in the Timor Sea 2006 hoặc CMATS) là không có giá trị pháp lý. Vụ kiện thứ hai diễn ra vào năm 2014 khi Đông Timor yêu cầu Tòa Án Công Lý Quốc Tế (ICJ) không được sử dụng văn kiện mà cảnh sát Úc bố ráp và tịch thu từ văn phòng luật sư người Úc của Đông Timor tại Canberra trong vụ kiện mà Đông Timor tiến hành vào năm 2013. Vào tháng 9 năm 2015, Đông Timor cũng tiến hành một đơn kiện khác với PCA tranh chấp với Úc quyền đánh thuế liên quan tới đường ống dẫn dầu từ khu vực mỏ dầu Greater Sunrise.
Để
hiểu lý do tại sao lại có những vụ kiện như vậy thì phải lược lại dòng lịch sử
lập quốc của Đông Timor. Đông Timor trước kia là thuộc địa của Bồ Đào Nha từ
thế kỷ 16. Tới tháng 11 năm 1975, Mặt Trận Cách Mạng Đông Timor Độc Lập
(Revolutionary Front for an Independent East Timor) tuyên bố Đông Timor là một
quốc gia độc lập. Chỉ 9 ngày sau đó, Nam Dương xua quân xâm chiếm và biến Đông
Timor thành tỉnh thứ 27 của Nam Dương.
Vào
năm 1989, Úc và Nam Dương ký Hiệp Ước Timor Gap (Timor Gap Treaty) đồng ý cùng
hợp tác khai thác tài nguyên trong Biển Timor. Năm 1999, Nam Dương quyết định
từ bỏ quyền kiểm soát và rút quân khỏi Đông Timor. Sau khi Đông Timor trở thành
một quốc gia độc lập và gia nhập thành viên Liên Hiệp Quốc vào ngày 20/5/2002,
Úc và Đông Timor ký Hiệp Ước Timor Sea (Timor Sea Treaty), thay thế cho
Hiệp Ước Timor Gap.
Chỉ
hai tháng trước khi Đông Timor giành được độc lập, Úc quyết định rút ra khỏi cơ
chế tài phán của UNCLOS đối với những tranh chấp liên quan tới phân định lãnh
hải.
Vào
năm 2006, Úc và Đông Timor ký Hiệp Ước CMATS they thế cho Hiệp Ước Timor Sea.
CMATS quy định là hai quốc gia sẽ chia đều thu nhập từ mỏ Greater Sunrise và
đồng ý giữ nguyên trạng cũng như không đặt vấn đề phân định lãnh hải trong 50
năm.
Vào
năm 2012, một cựu nhân viên tình báo Úc (nhân chứng K) tiết lộ là cơ quan tình
báo Úc ASIO đã gắn thiết bị nghe lén trong vách tường phòng họp của Nội Các
Chính phủ Đông Timor từ năm 2004 khi Úc viện trợ xây cất và tu bổ cơ sở hạ tầng
và tòa nhà chính phủ cho một chính quyền Đông Timor độc lập vừa mới ra đời.
Thực
chất của cuộc tranh chấp này là quyền kiểm soát và khai thác tài nguyên trị giá
khoảng 40 tỷ Mỹ kim trong vùng biển Timor. Lập luận của Đông Timor là Úc đã lợi
dụng một quốc gia non trẻ để khuyến dụ Đông Timor ký Hiệp Ước CMATS đánh mất
chủ quyền kinh tế tại khu vực mỏ Sunrise mà đúng ra theo luật quốc tế phải hoàn
toàn thuộc về Đông Timor vì nằm trong đường trung tuyến ranh giới lãnh hải và
vùng đặc quyền kinh tế giữa Đông Timor và Úc.
Đông
Timor có dân số khoảng 1.2 triệu và GDP mỗi đầu người xấp xỉ 1,000 Mỹ kim, so
với Úc là 25 triệu và 55,000 Mỹ kim. Như những trận đụng độ giữa David và
Goliath khác, Đông Timor hy vọng là công pháp quốc tế sẽ tạo sân chơi bình đẳng
cho các quốc gia giải quyết tranh chấp một cách hòa bình và công bằng. Vào ngày
3/3/2014, Tòa Án Công Lý Quốc Tế ban hành phán quyết (12 phiếu thuận, 4 phiếu
chống) ra lệnh cho Úc trả lại văn kiện mà cảnh sát Úc đã đột kích và tịch thu
từ văn phòng luật sư Bernard Colliery là luật sư của Đông Timor tại Canberra.
Ngoài ra, Úc không được sử dụng nội dung của các văn kiện này trong vụ kiện
CMATS do Đông Timor tiến hành vào năm 2013 cho tới sau khi vụ kiện này kết
thúc. Úc đã tuân thủ quyết định này và trao trả văn kiện lại cho Đông
Timor.
Về
vụ kiện CMATS, luật sư của Đông Timor có thể đưa ra 3 luận điểm để yêu cầu Tòa
Trọng Tài tuyên phán là Hiệp Ước CMATS không có giá trị pháp lý. Thứ nhất là Úc
đã gian lận trong tiến trình đàm phán. Điều 49 của Công Ước Vienna về Hiệp Ước
(Vienna Convention on the Law of Treaties) quy định là khi một quốc gia bị
khuyến dụ ký kết hiệp ước bởi hành vi gian lận của một quốc gia khác thì quốc
gia đó có thể hủy bỏ hiệp ước một cách chính đáng. Đặt máy nghe lén thu thập
thông tin bảo mật để trục lợi trong lúc thương lượng là một hành vi gian lận.
Vấn đề là hành vi này có khuyến dụ Đông Timor ký kết hiệp ước CMATS hay không?
Nếu Đông Timor chứng minh được là Úc thật sự đã đặt máy nghe lén khi sử dụng
chiêu bài viện trợ dẫn đến một hiệp ước bất công và thiệt thòi thì Đông Timor sẽ
có nhiều cơ hội thắng kiện.
Lập
luận thứ hai tương tự như lập luận thứ nhất đó là Đông Timor cáo buộc Úc đã
thiếu “thiện ý” (good faith) trong tiến trình đàm phán. Thiện ý là một nguyên
tắc được luật quốc tế công nhận. Khi đàm phán hiệp ước, các quốc gia liên hệ
cần phải có thiện ý để đưa đến một kết quả công bằng cho cả hai bên. Lúc đó,
thế thương lượng của Úc mạnh hơn Đông Timor rất nhiều với nguồn lực và phương
tiện dồi dào về khả năng ngoại giao, luật pháp và khoa học liên quan tới tài
nguyên trong vùng Biển Timor. Như vậy mà Úc còn nghe lén các cuôc thảo luận của
tân chính quyền Đông Timor khi thương lượng hiệp ước thì rõ ràng Úc đã vi phạm
nguyên tắc thiện ý.
Luận
điểm thứ ba là Úc đã thu thập tình báo bất hợp pháp trên lãnh thổ của Đông
Timor. Hành vi này vi phạm luật hình sự của Đông Timor. Hoạt động tình báo
trong thời bình cũng có thể được xem là can thiệp vào nội vụ của một quốc gia
và vi phạm chủ quyền của quốc gia đó trái ngược với tập quán quốc tế.
Hiện
nay, vụ kiện này vẫn đang tiếp diễn trong vòng bảo mật tại The Hague. Có một số
nguồn tin cho rằng phiên xử đã bắt đầu vào ngày 29/8/2016. Hội Đồng Thẩm Phán
gồm có Giáo Sư Tullio Treves, Lord Colin of Mapesbury và Giáo sư W. Michael
Reisman. Luật sư đại diện cho Đông Timor gồm có Sir Franklin Berman QC, Sir
Geoffrey Nice QC, Giáo Sư Vaughan Lowe QC và Tiến Sĩ Andrew Legg. Có nghĩa toàn
là những chuyên gia luật quốc tế thượng thặng. Đội ngũ luật sư của Úc cũng
chẳng vừa gì và gồm có Chánh Luật Sư Liên Bang Justin Gleeson SC, Sir Daniel
Bethlehem QC, Henry Burmester QC và Giáo Sư Luật Quốc Tế Chester Brown thuộc
Đại Học Sydney.
Lập
luận của Úc (tương tự như lập trường của Trung Quốc trong vụ kiện “Đường Lưỡi
Bò”) là PCA không có thẩm quyền xét xử vụ kiện này vì nó liên quan tới việc
phân định lãnh hải giữa hai quốc gia mà Úc đã tuyên bố rút lui khỏi cơ chế tài
phán của UNCLOS. Nhưng khác với Trung Quốc, Úc đã chấp nhận tham gia vào vụ
kiện và chấp nhận quyền phán xét của chính Tòa Trọng Tài là Tòa có thẩm quyền
xét xử hay không. Vì có tham gia vào vụ kiện nên Úc đã lèo lái và yêu cầu tất
cả mọi phiên xử được giữ trong vòng bí mật. Do đó, ngoài danh sách Hội Đồng
Thẩm Phán và luật sư đại diện cho hai bên, trang mạng của PCA không cho biết
thêm chi tiết nào khác về vụ kiện, ngay cả khi nào sẽ có phán quyết hoặc đã có
phán quyết sau cùng chưa?
Cũng
có thể là Tòa đã ban hành phán quyết theo yêu cầu của Đông Timor là Hiệp Ước
CMATS không có giá trị pháp lý. Đó là vì nào ngày 21/4/2016 vừa qua, Đông Timot
tiến hành đơn kiện theo thủ tục hòa giải dưới Phụ Lục V của UNCLOS yêu cầu Ủy
Hội Hòa Giải (Conciliation Commission) phân định lãnh hải giữa Úc và Đông
Timor. Thủ tục Hòa Giải dưới Phụ Lục V được áp dụng khi có tranh chấp giữa hai
quốc gia lân cận nhưng quốc gia liên hệ không chấp nhận quyền tài phán của tòa
được thành lập dưới UNCLOS. Vào ngày 25/6/2016, Ủy Hội Hòa Giải được thành lập
gồm có Đại Sứ Đan Mạch Peter Taksoe-Jensen, Tiến sĩ Rosalie Balkin (Úc), Thẩm
Phán Abdul G. Koroma (Sierra Leone), Giáo Sư Donald McRae (Canada và Tân Tây
Lan) và Thẩm Phán Rudiger Wolfrum (Đức). Ủy Hội đã bắt đầu phiên xử khai mạc
vào ngày 29/8/2016. Trái với thủ tục của Tòa Trọng Tài, phiên xử này đã được
trình chiếu trực tiếp qua hệ thống webcast và luật sư của Đông Timor và Úc đã
trình bày những lập luận căn bản của mình.
Theo
thủ tục hòa giải dưới Phụ Lục V, Ủy Hội Hòa Giải sau khi kết thúc phiên xử sẽ
đệ trình một bản báo cáo lên Tổng Thư Ký Liên Hiệp Quốc với một số đề nghị cụ
thể. Úc và Đông Timor sau đó có trách nhiệm đàm phán theo tinh thần của bản báo
cáo đó.
Tóm
lại, công pháp quốc tế ngày càng được sử dụng như là một công cụ giải quyết
tranh chấp giữa các quốc gia và tạo ra sân chơi bình đẳng bất kể sự khác biệt
về tầm cỡ, dân số, sức mạnh kinh tế và quân sự giữa các quốc gia có tranh chấp.
Tương quan sức mạnh kinh tế, quân sự và ngoại giao giữa Đông Timor và
Úc không khác gì khi so với Việt Nam và Trung Quốc. Các quan chức ngoại
giao Việt Nam thường hay than phiền là cứ mỗi lần họ nêu ra vấn đề đàm phán về
tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa là đồng nhiệm Trug Quốc có phản ứng giận dữ đập
bàn, đập ghế. Việt Nam có thể nghiên cứu và áp dụng thủ tục hòa giải dưới Phụ
Lục V của UNCLOS đối với Trung Quốc như Đông Timor đã làm với Úc. Khác với
Trung Quốc là tuy bị kiện mà Úc vẫn vui vẻ vác chiếu ra Tòa và tiếp tục viện
trợ hàng trăm Úc kim hàng năm cho Đông Timor. Khi thua kiện thì nghiêm túc tuân
thủ án lệnh của Tòa. Tổng Thống đầu tiên của Đông Timor độc lập là Xanana
Gusmao. Ông là một người có nhiều thiện cảm với Úc và có vợ người Úc. Ngược
lại, Úc cũng đã hỗ trợ ông rất nhiều trong tiến trình đấu tranh giành độc
lập. Nhưng có lẽ vấn đề khác biệt đáng nói nhất là chính quyền và giới
lãnh đạo Đông Timor chọn đặt quyền lợi của quốc gia trên quyền lợi riêng của
bản thân hoặc đảng phái. Còn giới lãnh đạo của Đảng Cộng Sản Việt nam thì lúc
nào cũng chỉ biết đặt quyền lợi và sự tồn vong của Đảng trên mọi quyền lợi của
tổ quốc và dân tộc Việt Nam.
Comments
Post a Comment